Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là một trong những mũi nhọn được TP.HCM ưu tiên phát triển nhằm tạo nền tảng cho công nghiệp phát triển bền vững. Tuy nhiên thời gian qua CNHT vẫn chưa được phát triển như mong muốn, hiện Đề án phát triển CNHT của TP.HCM do Sở Công thương chủ trì mới hoàn thành giai đoạn 1 và thành phố vẫn đang tiếp tục tìm thêm các giải pháp để hoàn thiện kế hoạch phát triển CNHT. Giải pháp nào cho CNHT phát triển trong thời gian tới?
Tầm quan trọng của CNHT
Một trong những nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố mà Đại hội Đảng bộ TP.HCM lần thứ X nêu rõ trong Báo cáo chính trị, “tiếp tục phát triển 4 ngành công nghiệp trọng yếu trên cơ sở xác định chiến lược phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ gắn với doanh nghiệp nhỏ và vừa… xây dựng cụm liên kết sản xuất; bổ sung chính sách đủ mạnh để tạo đột phá trong phát triển công nghiệp hỗ trợ gắn phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa”.
Thời gian qua, 4 ngành công nghiệp trọng yếu trên địa bàn tuy có sự tăng trưởng về lượng nhưng xét về chất, cấu trúc của ngành công nghiệp thành phố phát triển chưa thực sự bền vững và ngày càng bộc lộ những hạn chế trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, như: trên 80% nguyên vật liệu, phần lớn thiết bị và công nghệ phải nhập khẩu; sản xuất phục vụ sửa chữa thay thế, gia công lắp ráp là chủ yếu; các doanh nghiệp nhỏ và vừa với trình độ quản trị sản xuất phần lớn dựa vào kinh nghiệm, năng lực phát triển và khai thác thị trường, tiếp cận cơ chế chính sách ưu đãi của Nhà nước còn thấp; hạn chế trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, nếu có, chủ yếu là tham gia ở những công đoạn với công nghệ giản đơn, giá trị gia tăng thấp.
Theo khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) năm 2014, tỉ lệ nội địa hóa của công ty Nhật tại Việt Nam rất thấp, đạt 33,2% (tăng 1% so năm 2013). Tỉ lệ nội địa hóa của công ty Nhật tại Việt Nam tuy có tăng qua từng năm nhưng vẫn còn rất thấp so với 54,8% tại Thái Lan, 43,1% tại Indonesia. Kết quả trên tuy chỉ thể hiện tỉ lệ nội địa hóa của công ty Nhật tại Việt Nam nhưng về cơ bản đã phản ánh đúng thực trạng chung của ngành. Đó cũng là thực trạng của ngành CNHT thành phố. Doanh nghiệp trong nước còn sản xuất với phương thức gia công - nhập khẩu linh kiện vì giá rẻ hơn và cung ứng tốt hơn.
Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trên là do xuất phát từ thuộc tính của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại TP.HCM. Đó là sản xuất phân tán; vốn, tài sản ít nên khó tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng; chậm đổi mới công nghệ nên năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, hiệu quả kinh doanh thấp; lợi nhuận thấp, khó tích tụ vốn để tái đầu tư. Doanh nghiệp nhỏ và vừa rơi vào vòng luẩn quẩn của năng lực cạnh tranh thấp.
Xuất phát từ sự thiếu đồng bộ trong công tác xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển CNHT, thời gian qua, Trung ương và thành phố đã có nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển CNHT và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mặc dù các ngành đã có nhiều nỗ lực, tuy nhiên, theo ý kiến của doanh nghiệp, nhìn chung hiệu ứng, tác động của các cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp chưa thực sự hiệu quả. Cả nước nói chung và thành phố nói riêng chưa có cơ sở dữ liệu trong lĩnh vực CNHT. Do đó, các doanh nghiệp lắp ráp và doanh nghiệp CNHT không có thông tin và không biết về nhau. Mặt khác, doanh nghiệp CNHT chưa hiểu đúng và chưa đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng theo yêu cầu của nhà lắp ráp sản phẩm đầu cuối. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chậm đổi mới công nghệ, dẫn đến chất lượng, khả năng cung ứng thấp và giá thành cao; trong khi, các nhà lắp ráp lại có yêu cầu chất lượng cao, giá thành bằng hoặc thấp hơn so nhập khẩu mà điều này chỉ những nhà cung ứng có trình độ công nghệ cao mới đáp ứng được. Theo kết quả khảo sát, trình độ công nghệ của phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ đạt mức trung bình so với khu vực. Do đó, có một khoảng cách công nghệ rất xa giữa các nhà lắp rắp và các nhà cung ứng nội địa.
Giải pháp căn cơ
Ông Nguyễn Phương Đông, Phó Giám đốc Sở Công thương, cho rằng, thành phần quan trọng để phát triển CNHT là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, điểm yếu của doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là thiếu vốn đầu tư, ít lao động có chất lượng, khó vay vốn để đầu tư cho sản xuất… Từ đó, sản phẩm làm ra chất lượng còn thấp, giá thành cao và tất nhiên là tính cạnh tranh thấp.
Ngày 11-3-2015, UBND TP.HCM đã ban hành Quyết định số 1026/QĐ-UBND về thí điểm mô hình nhà xưởng cao tầng cho doanh nghiệp thuê tại Khu Công nghệ cao và tại các khu chế xuất Linh Trung, Tân Thuận, các khu công nghiệp Hiệp Phước, Đông Nam trong giai đoạn 2015 - 2018. Quy mô dự kiến mỗi nhà xưởng khoảng 3 - 8 tầng, diện tích khoảng 10.000 m2 đến 40.000 m2; các xưởng được thiết kế có diện tích 100 m2, 200 m2, 500 m2, 1.000 m2, 3.000 m2. Mục tiêu của dự án này là tạo điều kiện thuận lợi cho một số nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp Nhật Bản, sản xuất sản phẩm CNHT có nhu cầu mở xưởng sản xuất nhỏ để thăm dò thị trường và môi trường đầu tư trước khi quyết định đầu tư lâu dài vào Việt Nam; và các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các nhóm ngành công nghiệp trọng yếu của thành phố… Theo ông Nguyễn Bạch Hoàng Phụng, Phó ban Quản lý các khu chế xuất – khu công nghiệp TP.HCM (HEPZA), hiện nay HEPZA đang đôn đốc và hỗ trợ các chủ đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng triển khai nhanh mô hình nhà xưởng cao tầng. “Các chủ đầu tư xây nhà xưởng cao tầng sẽ được hưởng chính sách ưu đãi”, ông Phụng cho biết, dự kiến nhà xưởng đầu tiên sẽ đi vào hoạt động trong tháng 8-2016. Cũng theo ông Phụng, ngoài mô hình này, HEPZA đã nghiên cứu để hình thành phân khu công nghiệp hỗ trợ tại Khu công nghiệp Hiệp Phước và Khu công nghiệp Lê Minh Xuân 3 với diện tích hơn 200 ha, mục tiêu xây dựng khu chuyên ngành về CNHT.
Trong khi đó, ông Hiroshi Tahara, chuyên gia của Tập đoàn Tài chính Nhật Bản (JFC), cho biết, trong giai đoạn đầu phát triển khoảng những năm 1940, các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật Bản cũng gặp nhiều khó khăn như doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, chính sách bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Chính phủ đã giúp các doanh nghiệp này phát triển. Hiện tại Nhật vẫn duy trì mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng theo 2 cấp là chính phủ và các địa phương.
Nhiều chuyên gia đề nghị, thành phố cần chú trọng ưu tiên thu hút doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất, phát triển trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ phục vụ 4 ngành trọng yếu (cơ khí chế tạo, điện tử - công nghệ thông tin, hóa chất - nhựa - cao su, chế biến tinh lương thực - thực phẩm) và hai ngành truyền thống (dệt may, giày da). Trong giai đoạn đầu, cần tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ thuộc các ngành cơ khí chế tạo, hóa chất - nhựa - cao su nhằm thúc đẩy phát triển các sản phẩm hỗ trợ phục vụ cho các ngành công nghiệp khác. Trong quá trình phát triển, từng bước tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi; định hướng doanh nghiệp sản xuất lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh sử dụng sản phẩm CNHT được sản xuất từ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước; hình thành được hệ thống các doanh nghiệp nhỏ và vừa đủ mạnh, tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm CNHT cho các ngành công nghiệp trọng yếu, công nghiệp truyền thống của thành phố; thúc đẩy chuyển giao công nghệ thông qua hợp tác sản xuất giữa các công ty FDI với doanh nghiệp nhỏ và vừa để nhanh chóng làm chủ công nghệ; phát triển được đội ngũ nhân lực quản lý, kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu phát triển CNHT của thành phố…
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam là một trong những thị trường hàng đầu được các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác quan tâm, đầu tư; trong đó, TP.HCM là một trong những điểm lựa chọn đầu tiên. Để thu hút đầu tư, đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển CNHT cần kiện toàn công tác quản lý nhà nước về CNHT. Bởi lẽ, một trong những nguyên nhân quan trọng gây cản trở sự phát triển là do sự chồng chéo, phối hợp thiếu đồng bộ, chưa hiệu quả giữa các ngành, các cấp. Nhận thức được vấn đề, thành phố đã thành lập ban chỉ đạo phát triển CNHT để tập trung chỉ đạo xuyên suốt; đồng thời hình thành trung tâm phát triển CNHT, là đầu mối tiếp nhận, hỗ trợ giải quyết khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này trên địa bàn.
Qua khảo sát yêu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong lĩnh vực CNHT, chỉ cần thuê nhà xưởng diện tích nhỏ (200 - 300 m2), trong khi thực tế các nhà đầu tư hạ tầng tại các khu chế xuất - khu công nghiệp thường chỉ cho thuê đất với diện tích vài nghìn mét vuông trở lên… Nắm bắt được nhu cầu này, thành phố cần có chính sách khuyến khích, mời gọi các công ty đầu tư hạ tầng xây dựng sẵn các nhà xưởng cao tầng có quy mô phù hợp với nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực CNHT. Trước mắt, tiến hành xây dựng khoảng 10 ha diện tích sàn xây dựng để phục vụ nhu cầu doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngoài ra, để chuẩn bị đón nhận làn sóng đầu tư, thành phố cần rà soát, điều chỉnh quy hoạch, dành khoảng 500 ha đất trong giai đoạn (2016 - 2020) để thành lập các khu công nghiệp, trung tâm giao dịch chuyên về CNHT.
Mới đây, UBND TP.HCM tiếp tục ban hành Quyết định 50/2015/QĐ-UBND về Chương trình kích cầu đầu tư với mục đích tạo điều kiện ưu đãi nhiều hơn về cơ sở hạ tầng và vốn vay cho các dự án đầu tư trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, đặc biệt là CNHT, trong đó có ngành cơ khí. Ông Đỗ Phước Tống, Phó Chủ tịch Hội Cơ khí TP.HCM, Giám đốc Công ty TNHH Cơ khí Duy Khanh, cho rằng đây là chính sách rất tốt. Trước đó, UBND TP.HCM cũng có nhiều chính sách hỗ trợ các ngành trọng điểm, trong đó có ngành cơ khí. Bắt đầu từ Quyết định 20/2009/QĐ-UBND ban hành năm 2009, đến Quyết định 33/2011/QĐ-UBND năm 2011 và bổ sung sửa đổi bằng Quyết định 38/2013/QĐ-UBND và năm 2015 tiếp tục ban hành Quyết định 50 nói trên.
Hướng tới, thành phố cần rà soát việc sử dụng đất nông nghiệp tại các quận - huyện, có hiệu quả kinh tế thấp để đề xuất chuyển thành đất phục vụ sản xuất nhằm tạo quỹ đất đủ lớn để thu hút, chọn lọc các doanh nghiệp, tập đoàn lớn có dự án phù hợp với định hướng phát triển của thành phố đến đầu tư…