Chủ Nhật, ngày 14 tháng 12 năm 2025

Bác sĩ, Thầy thuốc nhân dân Tạ Thị Chung

Hạnh phúc là được làm việc suốt đời!

Vẫn chiếc áo bà ba mộc mạc, mái tóc bạc phơ, ánh mắt, nụ cười ấm áp, đôn hậu, Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới Tạ Thị Chung, 85 tuổi đời, 65 tuổi đảng, không lẫn vào ai giữa đoàn người vừa trở về sau những ngày tham dự Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ X, tại Hà Nội vào đầu tháng 12-2015.

Tham gia cách mạng từ năm 1946, khi mới 15 tuổi, với các công việc thuộc lĩnh vực y tế và hậu cần, với tính siêng năng, chăm chỉ, ham học hỏi, hết lòng vì nhiệm vụ, năm 1950, cô nữ y tá huyện Mỏ Cày Tạ Thị Chung được kết nạp vào Đảng. Năm 1960, bà bị bắt giam tại khám Bến Tre. Sau 9 ngày chịu nhiều nhục hình, nhưng với tấm lòng kiên trung của người con quê hương đồng khởi, địch không nhận được một lời khai nào có giá trị, chúng đành chuyển bà về khám Định Tường, nay thuộc thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang, tiếp tục dùng lời ngon ngọt dụ dỗ nhưng chúng vẫn thất bại. Đầu năm 1961, thấy không khai thác được gì nên chúng buộc phải trả tự do cho bà. Sau khi trở về, bà được cử đi học lớp y sĩ và làm Bí thư chi bộ, Trưởng khu Điều trị, trực tiếp phục vụ bệnh nhân ở Bệnh viện Hoàng Lê Kha (tại cơ quan Trung ương Cục miền Nam). Năm 1969, bà tiếp tục theo học lớp đào tạo bác sĩ và được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Bệnh viện Liên Cơ thuộc Ban Dân y miền Nam. Năm 1973 đến 1975, bà được cử tham gia các lớp bồi dưỡng ở Trường Quản lý cán bộ y tế, Viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh tại Hà Nội (nay là Bệnh viện Phụ sản Trung ương)...

“Tháng 4-1975, đi giữa Sài Gòn mà tôi cứ ngỡ như mình đang mơ”, bác sĩ Tạ Thị Chung chia sẻ cảm xúc như vẫn còn mới của mình. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà được tổ chức điều động về làm việc tại Bệnh viện Từ Dũ với nhiệm vụ là Bí thư Đảng ủy, Phó Giám đốc Bệnh viện. Lúc đó, cùng với những khó khăn, thách thức chung của cả nước, Bệnh viện Từ Dũ phải đối mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó lớn nhất là vấn đề về tư tưởng, nhân sự. Đội ngũ trí thức tại chỗ lần lượt xin nghỉ việc hoặc đi nước ngoài, cán bộ từ chiến khu về, từ miền Bắc chi viện không đủ. Với nhiệm vụ là Bí thư Đảng ủy, bà cùng với tập thể lãnh đạo Bệnh viện đề ra nghị quyết phải ổn định nhân sự, tập hợp hết sức mạnh nhân lực hiện có; đồng thời, tìm hiểu tâm tư tình cảm của cán bộ để có hướng giúp đỡ, động viên kịp thời; tuyên truyền và giữ chân được nhiều y bác sĩ ở lại cùng xây dựng Bệnh viện, phục vụ nhân dân; đề xuất thành phố cho Bệnh viện được mở rộng phòng khám tập thể ngoài giờ nhằm tạo thêm nguồn thu, giúp cán bộ nhân viên ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, từng bước vượt qua khó khăn đưa hoạt động của Bệnh viện dần đi vào nền nếp.

Bà cùng với Đảng ủy, Ban Giám đốc của Bệnh viện làm tốt công tác quản lý, điều hành Bệnh viện, xây dựng cơ sở vật chất, lực lượng y bác sĩ đạt chất lượng cao, nghiên cứu khoa học, giao lưu học tập và đạt được những thành tích đáng tự hào: là bệnh viện đầu ngành về sản phụ khoa phía Nam; bệnh viện đầu tiên của Việt Nam nghiên cứu và ứng dụng thành công công trình thụ tinh trong ống nghiệm đạt hiệu suất cao bằng hoặc hơn các nước trong khu vực. Tập thể các nhà khoa học nữ của Bệnh viện đã được trao giải thưởng uy tín Kovalevskaia (năm 1997); thực hiện thành công ca phẫu thuật Việt - Đức gây tiếng vang lớn trên thế giới (năm 1988); đào tạo và hỗ trợ công tác cho hàng ngàn “cô đỡ thôn bản” người dân tộc thiểu số, góp phần vào chính sách quan tâm, phát triển, nâng cao dân trí, giảm tỉ lệ tử vong ở thai phụ và trẻ sơ sinh ở vùng sâu, vùng xa…

Từ những năm 1978 - 1979, bà đề xuất với Đảng ủy và Ban Giám đốc Bệnh viện ủng hộ bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng (nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ) báo cáo với Thành ủy, UBND TP.HCM kế hoạch nghiên cứu ảnh hưởng của chất độc da cam/dioxin với sức khỏe và sinh sản con người. Công trình đã góp nhiều luận cứ, luận chứng khoa học quan trọng, tạo được tiếng vang trong và ngoài nước. Khi Nhà nước chính thức thành lập Ủy ban 10-80, cơ quan nghiên cứu hậu quả của chất độc da cam, bà cùng Ban Giám đốc vận động xây dựng Làng Hòa Bình trong Bệnh viện Từ Dũ (năm 1980), để nuôi dưỡng trẻ em là nạn nhân chất độc da cam thế hệ thứ hai, bị khuyết tật nặng, gia đình không thể nuôi dưỡng được hoặc bị bỏ rơi. Đây cũng là cơ duyên giữ chân bà ở lại làm việc “đến khi nào mình không còn sức mới thôi!”, như bà chia sẻ.

Và đúng như vậy, dù đã nghỉ hưu hơn 17 năm (từ tháng 8-1998) nhưng ở Làng Hòa Bình Từ Dũ không ngày nào vắng bước chân của bà. Bao thế hệ đồng nghiệp y bác sĩ bệnh viện Từ Dũ đều gọi Bác sĩ – Thầy thuốc nhân dân Tạ Thị Chung một cách triều mến là chị, cô Hai Chung, còn với các em nhỏ ở Làng Hòa Bình thì đó là hình ảnh thiêng liêng, gần gũi của “bà nội”. Bởi thế, với nhiệm vụ phụ trách công tác tiếp dân và cán bộ công chức, Phó Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ, Phó Giám đốc Làng Hòa Bình Từ Dũ, hàng ngày, trong căn phòng nhỏ ở tầng trệt, ngay dưới chân cầu thang Làng, vẫn là nơi mà các bác sĩ, nữ hộ sinh… trong Bệnh viện thỉnh thoảng lại ghé qua, kể cho chị Hai nghe những vui buồn trong công việc, những trăn trở trong cuộc sống; còn mấy em nhỏ ở Làng có chuyện gì lại chạy xuống tâm sự với “bà nội”…

Hơn 25 năm xây dựng và phát triển, nhiều người con của Làng Hòa Bình nỗ lực vượt qua nghịch cảnh, vươn tới thành công, được xã hội ghi nhận như: Duy Phương – người được xác lập kỷ lục “ông đồ nhỏ nhất Việt Nam”, vận động viên bơi lội Nguyễn Hồng Lợi – vô địch quốc gia dành cho người khuyết tật nhiều năm liền, Nguyễn Đức (một trong ca song sinh Việt – Đức), là nhân viên hành chính của Bệnh viện Từ Dũ và là Đại sứ Hòa bình Việt Nam tại Nhật Bản, “cháu gái da cam” Trần Thị Hoan - phát biểu tại phiên điều trần đấu tranh cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam ở Hoa Kỳ, “em gái khuyết tật” Phương Anh… đều học giỏi rồi quay trở lại làm việc giúp Làng Hòa Bình. Đó là những niềm vui và hãnh diện của “bà nội” Hai Chung.

Bà trăn trở: “Việc xây dựng và duy trì Làng Hòa Bình có rất nhiều khó khăn, phải vận động và làm việc để Làng có đủ cơ sở vật chất, kinh phí lo cho các cháu khuyết tật sống, chữa bệnh, học tập và hội nhập cộng đồng xã hội, nhất là các cháu có khả năng phát triển”. Mặc dù Làng được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động nhưng vẫn không đủ so với nhu cầu chăm sóc sức khỏe, học tập của các em… Nên mỗi năm, bà phải vận động trên 500 triệu đồng từ nhân dân và bạn bè quốc tế, góp phần chăm lo cho các em. Hiện Làng điều trị trên 60 em nội trú, 325 em ngoại trú, trong đó, 25 em có khả năng đi học được, còn đa số các em khuyết tật về thần kinh, khuyết tật nặng, Làng phải nuôi dưỡng suốt đời. Trong số các em có thể đi học, 10 em trưởng thành, theo học đại học, cao đẳng, trung cấp, trường nghề và đã có việc làm ổn định.

Là một bác sĩ nhiều năm liền phục vụ trong ngành sản phụ khoa, không chỉ có tình yêu thương dành cho trẻ em mà trong bà sẵn hiện diện cả tình thương sâu sắc với các hoàn cảnh của nữ bệnh nhân. Vì thế, bà không khỏi trăn trở khi có một số chị em vì lỡ lầm, mang thai ngoài ý muốn bị người yêu trốn chạy, gia đình ruồng bỏ, xã hội không chấp nhận, quẫn trí dễ đi đến những quyết định liều lĩnh như phá thai, tự vẫn, trả thù đời… ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của mẹ, sinh mạng của trẻ và trở thành những gánh nặng xã hội… Hun đúc ý tưởng tạo ra một nơi để giúp đỡ đối tượng này, khi về hưu bà đề xuất và vận động thành lập Trung tâm Bảo trợ xã hội cho chị em lỡ mang thai ngoài ý muốn, giúp chị em có nơi nương tựa, vượt qua khó khăn, sinh đẻ an toàn, chờ ngày hòa hợp với gia đình. Năm 1998, nhà tạm lánh chính thức ra đời. Bà nhớ lại: “Ban đầu, chúng tôi nhận được nhiều luồng ý kiến, có người hoan nghênh, chia sẻ nhưng cũng không ít người cho rằng chúng tôi “vẽ đường cho hươu chạy”. Nhưng chúng tôi quyết tâm thực hiện, với niềm tin là giúp đỡ, giáo dục một phụ nữ là giúp đỡ, giáo dục cả một gia đình, một thế hệ”. Từ ngày thành lập đến nay, mái ấm vận động được hơn 406 triệu đồng để chăm lo, cưu mang giúp đỡ 442 chị em lỡ mang thai ngoài ý muốn, nuôi 50% trẻ, số còn lại phải gửi ở các trung tâm chăm sóc trẻ mồ côi. Mắt bà ánh lên sự lạc quan: “Niềm vui lớn nhất của chúng tôi là giúp nhiều em học được một cái nghề trong khi tạm lánh, chờ sinh, tìm lại hạnh phúc, tìm lại giá trị con người, có được cơ hội nuôi con, làm mẹ...”.

Hiện nay, mặc dù sức khỏe có phần hạn chế nhưng bà vẫn có mặt tại phòng làm việc lúc 6 giờ sáng để cùng hơn 30 nhân viên tình nguyện chăm sóc các em được nuôi dưỡng tại Làng Hòa Bình. Hơn 40 năm gắn bó và làm việc tại Bệnh viện Từ Dũ và Làng Hòa Bình, thế nhưng dường như bà vẫn chưa thật hài lòng với những gì mình làm được, bởi như lời bà tâm sự: “Chỉ tiếc là tôi không còn trẻ để làm được nhiều hơn, giờ chỉ phụ được cho Làng Hòa Bình. Điều hạnh phúc nhất của tôi là được làm việc suốt đời!”…

Bác sĩ, Thầy thuốc Nhân dân Tạ Thị Chung ba lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động các năm 1985, 2002, 2013, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhì (2000), Huân chương Lao động hạng Ba (1985), hạng Nhì (1995), nhiều lần được tặng Cờ thi đua của Chính phủ, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế, Trung ương Hội Chữ thập đỏ, UBND TP.HCM… về các hoạt động nghiệp vụ và hoạt động khác.

Cẩm Tú

Thông báo