Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo đã xác định mục tiêu, phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn mạnh: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”[1]
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941), Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[2].
Với mục tiêu tiên quyết giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, Đảng ta đã thức tỉnh, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt đảng phái, giai cấp, tín ngưỡng, nghề nghiệp,… tạo nên sức mạnh to lớn đánh Pháp, đuổi Nhật, làm nên Cách mạng Tháng Tám (1945), khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chỉ 3 tuần sau khi giành được độc lập, nhân dân ta lại phải tiến hành kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, thể hiện quyết tâm sắt đá của toàn dân tộc “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[3].
Độc lập, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người dân phải được hưởng tự do và hạnh phúc, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì”[4].
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; chú trọng giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, giữa độc lập dân tộc và người cày có ruộng; chăm lo xây dựng chế độ mới của dân, do dân và vì dân; thực hiện giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng đất cho nông dân sản xuất... Nhờ đó, đã từng bước giải quyết đúng đắn, hài hòa lợi ích của các bộ phận; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tạo ra động lực, sức mạnh to lớn để nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ (1954).
Trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Nhờ đó, đã phát huy sức mạnh của tiền tuyến và hậu phương, dân tộc và thời đại để đánh thắng kẻ thù xâm lược, hoàn thành mục tiêu của cách mạng.
Sau thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” đã buộc đế quốc Mỹ rơi vào tình thế bị động, lúng túng, chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Chúng ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước chư hầu vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam; đồng thời, tăng cường đánh phá miền Bắc xã hội chủ nghĩa bằng không quân và hải quân, hòng thay đổi cục diện trên chiến trường, làm lung lay quyết tâm kháng chiến giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
Trước thử thách hiểm nghèo của dân tộc, ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước đoàn kết một lòng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO”[5].
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên, cổ vũ cả dân tộc Việt Nam nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dù phải chịu nhiều tổn thất, đau thương, mất mát, hy sinh nhưng kiên quyết, kiên trì kháng chiến, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn lịch sử vinh quang và hào hùng được khẳng định bằng thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, dân tộc ta đã chứng minh chân lý và sức sống mãnh liệt tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Văn bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam sáng ngày 17/7/1966, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Nguồn: Ảnh tư liệuBước vào thời kỳ cả nước thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động phức tạp, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo, công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn đứng vững, tiếp tục giành những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Thành tựu nổi bật và cơ bản là chúng ta đã giữ vững được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; từng bước phá thế bao vây cô lập của kẻ thù, ngăn chặn và đẩy lùi mọi mưu đồ chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, phản động; tạo môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chân lý sáng ngời, có giá trị vĩnh hằng, trường tồn với thời gian, không chỉ cho hôm qua, hôm nay mà còn cho cả mai sau. Với giá trị lịch sử và thực tiễn sâu sắc, năm 2012, bản thảo Lời kêu gọi: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Nhà nước vinh danh là một trong những bảo vật quốc gia cần được gìn giữ và lưu truyền cho các thế hệ mai sau.
Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng
Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM
----
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011, tr.1
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000, tr.113
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011, tr.534
[4]Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011, tr.64
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011, tr.131