Theo đánh giá về thực trạng và giải pháp nâng cao năng suất lao động của Việt Nam do Bộ Kế hoạch – Đầu tư vừa thực hiện, năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2014 đạt 74,7 triệu đồng/lao động, tăng 4,9% so với năm 2013. Bình quân giai đoạn 2005 – 2014 tăng 3,7% mỗi năm. Giả định Việt Nam và một số nước vẫn duy trì liên tục tốc độ tăng trưởng năng suất lao động trung bình như trong giai đoạn 2007 – 2012 thì phải đến năm 2038, Việt Nam mới bắt kịp năng suất lao động của Philippines, đến năm 2069 mới bắt kịp năng suất lao động của Thái Lan. Còn nếu so với Trung Quốc và Ấn Độ, năng suất lao động của Việt Nam cũng tăng chậm hơn: năm 1994 năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc 1,3 lần, đến năm 2013 lại tăng lên 2,8 lần; cùng thời gian đó, giữa Ấn Độ và Việt Nam tăng từ 1,6 lần lên 1,7 lần(1).
Còn theo nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) công bố năm 2014, cho thấy, năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất châu Á – Thái Bình Dương – thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. So với một số nước ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam vẫn có khoảng cách lớn, chỉ bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan. Đã vậy, tốc độ tăng của năng suất lao động tại Việt Nam cũng giảm đi: trong giai đoạn 2002 – 2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2%/năm – mức cao nhất trong khu vực; tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hàng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%(2).
Năng suất lao động có thể xem là một vấn đề lớn không chỉ của nền kinh tế mà còn của đất nước, bởi nó liên quan trực tiếp đến sức cạnh tranh của nền kinh tế, khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp và sản phẩm, đồng thời liên quan đến chất lượng sống của người lao động. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng đã thẳng thắn nhìn nhận: “Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp”; “Năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực”.
Vì vậy, dự thảo đã nêu một số vấn đề liên quan đến việc nâng cao năng suất lao động, như đề ra chỉ tiêu “năng suất lao động xã hội bình quân tăng 4 – 5%/năm”, “chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động”, “Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động”, “Xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hợp lý, phát huy lợi thế so sánh, có năng suất lao động và năng lực cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”, “Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều phải xây dựng trên những cơ sở khoa học vững chắc, xác định rõ các giải pháp công nghệ hiện đại phù hợp nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế”, “Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin..., cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn”, “Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động”…
Từ thực tế đó, xin đề xuất một số giải pháp nâng cao năng suất lao động.
Thứ nhất, chú trọng đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, nâng cao kỹ năng cho người lao động. Theo Bộ Kế hoạch – Đầu tư, năm 2014, cả nước có 9,6 triệu lao động được đào tạo trong tổng số 52,7 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm (chiếm 18,2%). Lao động được đào tạo có thể hiểu là bao gồm những người đã học và tốt nghiệp ở một trường lớp đào tạo chuyên môn kỹ thuật của cấp học hoặc trình độ đào tạo tương đương thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ 3 tháng trở lên, như vậy có tới 81,8% tổng số lao động chưa được đào tạo để đạt trình độ chuyên môn kỹ thuật nào đó.
Do đó, phải xem việc đào tạo là một yêu cầu cấp bách và quan trọng không chỉ của bản thân các doanh nghiệp mà còn của hệ thống giáo dục cả nước. Hệ thống giáo dục phải dự báo chính xác nhu cầu lao động (số lượng, quy mô, lĩnh vực…) và có chương trình đào tạo thực sự thiết thực. Ngành giáo dục cũng phải hỗ trợ các tổ chức khác đào tạo lại, bồi dưỡng lực lượng lao động nhằm không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ. Bản thân các doanh nghiệp cũng cần có bộ phận bồi dưỡng, đào tạo, huấn luyện các kỹ năng cần thiết cho người lao động trong hệ thống của mình.
Thứ hai, tổ chức lại lao động ở các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cơ quan hành chính, sự nghiệp. Hiện nay, có hiện tượng “thất nghiệp trá hình”, tức là có thừa người ngay trong cơ quan, đơn vị, và nhiều người cùng chia sẻ khối lượng công việc không nhiều. Hoặc, một hiện tượng khác là nhiều người làm việc dưới khả năng thực sự của mình vì cho rằng với đồng lương đó thì chỉ cần làm việc vừa phải. Cả hai hiện tượng đó đều làm giảm năng suất lao động. Do đó, cần thiết có sự tổ chức lại một cách mạnh mẽ, từ việc sắp xếp lại bộ máy, nhân sự cho đến xây dựng quy trình làm việc mới hợp lý hơn theo hướng tinh gọn, nhanh chóng, hiệu quả hơn. Từng khâu, từng bộ phận cần được tổ chức theo khoa học để hợp lý hóa bộ máy, giảm giá thành và đạt hiệu quả lao động cao nhất.
Dĩ nhiên, quá trình đó cần gắn với tăng thu nhập cho người lao động. Chẳng hạn, trong doanh nghiệp, các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh phải đem lại lợi ích vật chất tương xứng cho người lao động, có như vậy mới kích thích sự tìm tòi, nỗ lực sáng tạo. Hay trong cơ quan nhà nước, việc tinh giản biên chế phải được thực hiện triệt để và gắn với việc nâng cao thu nhập tăng thêm cùng các khoản lợi ích vật chất khác cho cán bộ công chức.
Thứ ba, nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan hành chính, tăng cường cải cách hành chính để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhân dân. Hiện nay, thời gian thực hiện một số thủ tục hành chính tuy đã giảm, nhưng vẫn còn cao so với mức trung bình của các nước ASEAN-6 (6 nước phát triển hàng đầu của khối). Chẳng hạn, năm 2014, thời gian nộp thuế (không bao gồm thời gian nộp bảo hiểm) của doanh nghiệp đã giảm được 290 giờ, từ 537 giờ/năm xuống còn 247 giờ/năm, nhưng còn cao hơn nhiều mức bình quân 121 giờ/năm của các nước ASEAN-6. Ngoài ra, bộ máy hành chính còn cồng kềnh, đầu mối trực thuộc Chính phủ tuy đã giảm nhưng bộ máy bên trong các bộ, tổng cục còn chưa giảm; chất lượng và năng lực đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập…
Như vậy, khả năng đáp ứng các yêu cầu, các dịch vụ công của cơ quan công quyền có tác động rất tích cực đến việc nâng cao năng suất lao động của các tổ chức, cá nhân, nhất là với các doanh nghiệp. Chẳng hạn, giảm thủ tục và thời gian để người lao động được hưởng bảo hiểm (y tế, tai nạn, thai sản…) không chỉ giảm chi phí cho bản thân người lao động đó mà còn giảm thiệt hại cho doanh nghiệp, đồng thời, tạo sự gắn kết tốt hơn của người lao động đối với doanh nghiệp, cũng có nghĩa là tăng năng suất lao động lên.
Thứ tư, mạnh dạn ứng dụng tự động hóa, công nghệ thông tin trong sản xuất, kinh doanh, quản lý, điều hành… Các tổ chức, doanh nghiệp cần chú trọng việc cải tiến, đổi mới phương tiện làm việc, trong đó đặc biệt phải ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ để tăng năng suất lao động, thậm chí thay thế sức lao động của con người ở một số khâu nào đó. Việc cải tiến này còn giúp minh bạch hóa quy trình, nhất là trong việc xử lý và ban hành các quyết định hành chính, tránh “lạc trách nhiệm” hoặc các hiện tượng tiêu cực. Những cải tiến này, đối với doanh nghiệp là làm giảm giá thành sản phẩm, còn đối với cơ quan hành chính là giảm thời gian và phiền hà cho nhân dân, trong đó có các doanh nghiệp, đều góp phần tích cực vào nâng cao năng suất lao động.
Để làm được điều này, các doanh nghiệp, cơ quan cần được hỗ trợ vốn, kinh phí để có thể đầu tư trang thiết bị hiện đại, tập huấn cho người lao động, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có thể vận hành, thao tác tốt các thiết bị hiện đại. Trong những trường hợp cần thiết, có thể quy định thời hạn sử dụng hoặc thời gian khấu hao một số loại máy móc, thiết bị để buộc phải thay thế phương tiện, thiết bị mới nhằm nâng cao năng suất lao động.
Thứ năm, đặc biệt chú trọng đến khu vực nông nghiệp, nông thôn. Theo thống kê, tỉ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản hiện nay còn khá cao (năm 2014 chiếm 46,3%) và cao hơn so với các nước trong khu vực. Phần lớn lao động làm việc trong khu vực này là lao động giản đơn, có tính thời vụ, việc làm không ổn định, nên giá trị gia tăng tạo ra không cao, dẫn đến năng suất lao động thấp; khu vực này có tới trên 46% lao động của cả nước nhưng chỉ tạo ra 18,1% GDP.
Để khắc phục tình trạng này, cần đẩy mạnh cơ khí hóa sản xuất nông nghiệp, thực hiện sản xuất thâm canh và xen canh để hạn chế yếu tố nông nhàn theo thời vụ, đồng thời tạo thêm nhiều ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn. Bên cạnh đó, cũng cần chú ý đào tạo nghề, hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân bằng nhiều hình thức phù hợp.
Tóm lại, nâng cao năng suất lao động là một vấn đề lớn có tính chất sống còn của đất nước nói chung và nền kinh tế nói riêng trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, đặc biệt hội nhập về kinh tế. Nâng cao năng suất lao động gắn với nâng cao năng lực quản lý và điều hành của các cơ quan hành chính, các tổ chức thực hiện các dịch vụ hành chính công. Do đó, muốn nâng cao năng suất lao động ở các tổ chức kinh tế thì cần phải nâng cao năng suất lao động ở khu vực nhà nước và các khu vực được nhà nước ủy quyền thực hiện các dịch vụ công. Đặc biệt, phải nâng cao năng suất lao động từ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
-----------------------------------
(1) Bài Năng suất lao động Việt Nam: Nửa thế kỷ nữa mới bắt kịp Thái Lan, Báo Tuổi trẻ ngày 9-10-2015.
(2) Bài Năng suất lao động Việt Nam bằng 1/15 Singapore, Báo Đất Việt online, ngày 13-5-2014.