Thứ Hai, ngày 15 tháng 12 năm 2025

Tính ưu việt của thuế thu nhập cá nhân

Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) được kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá XII thông qua ngày 21-11-2007 (số 04/2007/QH12), Chủ tịch nước đã có Lệnh công bố số 13/2007/L-CTN ngày 5-12-2007 và Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2009. Xin giới thiệu loại luật thuế này trên thế giới đang áp dụng và những điểm mới của Luật Thuế TNCN của Việt Nam.

Thuế TNCN là loại thuế phổ biến trên thế giới và đã có lịch sử hàng trăm năm. Thời kỳ mới ban hành, các nước thường đánh thuế vào đối tượng dễ đo lường được như đất đai, tài sản, hàng hoá… Thuế TNCN đầu tiên được áp dụng tại Hà Lan vào năm 1797, sau đó là Vương quốc Anh (năm 1799), Đức (năm 1808), Hoa Kỳ áp dụng loại thuế này muộn hơn nhưng cũng từ năm 1864. Các nước châu Âu còn lại và Úc, New Zealand, Nhật Bản cũng áp dụng thuế TNCN vào nửa cuối thế kỷ XIX. Các nước châu Á như Thái Lan áp dụng năm 1939, Philippines năm 1945, Hàn Quốc năm 1948, Indonesia năm 1949, Trung Quốc năm 1984; những nước Đông Âu thuộc các nền kinh tế chuyển đổi như Romania năm 1990, Nga năm 1991, Ba Lan năm 1992… Đến nay đã có 180 nước áp dụng thuế TNCN.

Thuế TNCN có diện điều chỉnh rộng, áp dụng đối với hầu hết cá nhân có thu nhập. Thu nhập chịu thuế rất đa dạng, bao gồm: thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu nhập từ kinh doanh; từ đầu tư gián tiếp như cho vay, tham gia mua cổ phần, góp vốn liên doanh; thu nhập từ chuyển nhượng vốn; chuyển nhượng bất động sản; thu nhập về trúng thưởng; từ tiền bản quyền; thu nhập từ quà biếu, quà tặng, thừa kế. Do đặc điểm của thuế TNCN có tính đến khả năng của người nộp thuế, hướng tới mục tiêu công bằng xã hội nên bên cạnh các loại thu nhập chịu thuế, luật thuế của nhiều nước có quy định cụ thể một số khoản thu nhập không chịu thuế, một số khoản thu nhập được miễn thuế cùng với định về giảm trừ gia cảnh.

Các nước châu Âu đã coi thuế TNCN là “nữ hoàng”; còn Nhật Bản lại gọi là thuế “vua” của các loại thuế. Sắc thuế này có vị trí quan trọng bậc nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Trước hết, thuế TNCN thường chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu của ngân sách nhà nước như: của Mỹ chiếm 56% tổng thu, Đức và Thụy Điển 45%, Anh 36%, Nhật Bản 29%, Pháp 28%. Tỷ trọng thuế TNCN trong tổng thu ngân sách một số nước châu Á đang phát triển có thấp hơn như: Philippines 17%, Malaysia 15%, Thái Lan 13%.

Thứ hai, cùng với khả năng huy động nguồn thu, thuế TNCN còn có chức năng quan trọng hơn, đó là điều tiết, phân phối lại thu nhập trong xã hội. Việc điều tiết được thiết kế phù hợp với khả năng đóng góp của cá nhân, trên cơ sở xem xét đến hoàn cảnh cụ thể của người nộp thuế: đảm bảo người có thu nhập thấp thì chưa nộp thuế, người có thu nhập cao hơn thì phải nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau, nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn.

Thứ ba, việc thiết kế biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với những thu nhập chủ yếu như thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công đảm bảo chính sách điều tiết được công bằng. Biểu thuế luỹ tiến từng phần được thiết kế theo mức độ tăng dần về thu nhập tính thuế và thuế suất, do đó số thuế phải nộp cũng luỹ tiến tăng theo, đảm bảo công bằng xã hội. Đây là đặc điểm riêng có của thuế TNCN, vì các sắc thuế khác đều quy định thuế suất toàn phần mà thuế suất này có nhược điểm điều tiết bình quân trong mọi trường hợp, không phân biệt giàu nghèo.

Thứ tư, tính nhân văn của luật thuế này cũng được thể hiện ở chỗ, ngoài việc áp dụng các mức giảm trừ gia cảnh, người nộp thuế còn được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế đối với những khoản chi đóng góp từ thiện, nhân đạo, hỗ trợ phát triển sự nghiệp giáo dục, khuyến khích người có thu nhập cùng chung sức với nhà nước giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, góp phần xoá đói, giảm nghèo.

Luật Thuế TNCN của Việt Nam được thể hiện những điểm mới:

1. Về đối tượng nộp thuế: Cá nhân kinh doanh đang nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, cá nhân có thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công và một số thu nhập theo Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành sẽ được điều chỉnh bởi Luật Thuế TNCN. Ngoài ra, có bổ sung thêm đối tượng nộp thuế là cá nhân có thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ thừa kế, quà tặng.

2. Thu nhập chịu thuế được mở rộng đối với các khoản như: thu nhập từ đầu tư vốn, thu nhập chuyển nhượng vốn; chuyển nhượng bất động sản, trong đó chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sử dụng đất ở; chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước; một số khoản thu nhập từ thừa kế, quà tặng; thu nhập từ trúng thưởng trong các hình thức cá cược, sòng bạc.

3. Thay việc áp dụng mức khởi điểm chịu thuế bằng quy định về giảm trừ gia cảnh và mở rộng áp dụng đối với các cá nhân có thu nhập từ kinh doanh.

4. Người nộp thuế được trước các thu nhập từ khi tính thuế đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học; khoản đóng góp vào các tổ chức, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật, người già không nơi nương tựa.

5. Xác định cụ thể về thu nhập tính thuế đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu, đặc biệt là khi xác định thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú. Ngoài khoản giảm trừ gia cảnh, thu nhập này còn được trừ thêm các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành nghề phải tham gia bảo hiểm bắt buộc, các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo để áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần.

6. Quy định riêng về thu nhập tính thuế giữa các cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú. Thống nhất nghĩa vụ thuế giữa người Việt Nam và người nước ngoài.

Nguyễn Văn Nam(Theo Tạp chí Thuế)

Thông báo