Nhà yêu nước Phan Châu Trinh (1872 - 1926). (Ảnh tư liệu)(Thanhuytphcm.vn) - Ngày 24/3/1926, nhà yêu nước nổi tiếng Phan Châu Trinh (hiệu là Tây Hồ) qua đời tại Sài Gòn, thọ 54 tuổi; và mấy ngày sau đó, đã diễn ra một trong những đám tang lớn bậc nhất ở thành phố này. Sau gần 100 năm nhìn lại hành trạng, tư tưởng và con đường cách mạng của cụ Phan, chúng ta hẳn không quên nhận xét của Bác Hồ về cách thức đấu tranh của cụ “khác nào xin giặc rủ lòng thương”. Tuy nhiên, vượt thời gian, một trong giá trị của cụ còn đọng lại và vẫn mang ý nghĩa sâu sắc trong bối cảnh hiện nay là tinh thần “khai dân trí”.
Đây là nội dung đầu tiên trong chủ thuyết được cụ Phan tích cực truyền bá là “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, khoảng những năm 1906 - 1908, gắn với các phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục... Theo đó, cụ mong muốn cải cách giáo dục (bỏ lối học từ chương, xóa mù chữ bằng cách phát động phong trào học Quốc ngữ…), dạy những tri thức mới gắn với các vấn đề thực tiễn cuộc sống, bổ sung các môn khoa học thường thức, mở mang đầu óc con người, bài trừ mê tín dị đoan, thực hiện đời sống mới…
Dù bị sớm đàn áp, nhưng khẩu hiệu và các phong trào này đã đạt được những kết quả nhất định, mà sau này học giả Nguyễn Hiến Lê nhận xét trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục, xuất bản lần đầu năm 1956: “Cụ Tây Hồ là người mở đường cho phong trào Duy Tân ở nước nhà. Lập (Đông kinh) nghĩa thục, một phần công lớn là của cụ, gây tư tưởng mới ở Quảng Nam là cụ, đi khắp nơi diễn thuyết là cụ, khuyên quốc dân cắt tóc là cụ, liệng cái phó bảng mà ra lập hiệu buôn cũng là cụ, bỏ tục nhuộm răng, vận Âu phục bằng nội hóa thì người đầu tiên cũng lại là cụ…".
Hiện nay, đặt vấn đề “khai dân trí” thì cần hiểu rộng hơn, toàn diện hơn. Bởi sau gần 80 năm thành lập nước, từ chỗ 95% dân số mù chữ, tính đến năm 2020, tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi 15 - 60 ở Việt Nam đạt 97,85%, trong đó nhóm tuổi 15 - 35 đạt 99,3%, cao hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới là 84,1%. Theo cách hiểu đơn giản, biết chữ là khả năng đọc, viết và sử dụng số trong ít nhất một phương pháp viết... Điều này có nghĩa rằng, một người đọc được một văn bản thông thường, viết được chữ và số bằng một loại ngôn ngữ nhất định với một số ký hiệu phổ biến, làm được một số phép toán thông dụng, hiểu được các định nghĩa trong từ điển không thuộc lĩnh vực chuyên môn sâu… thì có thể coi là biết chữ. Như vậy, nền tảng dân trí của một xã hội, một đất nước được hiểu là ít nhất phải “biết chữ”.
Tuy nhiên, hiện dân trí không chỉ dừng lại ở việc “biết chữ”. Thậm chí “biết chữ” theo cách tiếp cận mới của thế giới còn là phải đọc được bản đồ, hiểu được các biển báo giao thông, có thể giao tiếp, sử dụng được một số máy tính đơn giản hoặc cách gõ chữ trên một số thiết bị… Xét góc độ đó, ở Việt Nam vẫn còn một bộ phận đáng kể người “chưa biết chữ”, nhất là các nhóm dân cư ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, đồng bào người dân tộc thiểu số…
Từ cách tiếp cận, trong điều kiện hiện nay, dân trí bên cạnh việc biết chữ có thể hiểu là khả năng nhận thức của người dân liên quan đến nhiều vấn đề, như nắm được một cách cơ bản quyền và nghĩa vụ của mình; biết một cách khái quát về các quy định pháp luật cơ bản (nhất là liên quan đến quyền con người, tài sản, luật đi đường…); có khả năng nhận thức về các nội dung truyền thông của các cơ quan chức năng và đề đạt ý kiến đến các cấp chính quyền về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình; có khả năng tự bảo vệ trên cơ sở vận dụng các quy định của pháp luật; có thể sử dụng được các phương tiện và thiết bị thiết yếu phục vụ cuộc sống (như tivi, máy lạnh, máy giặt, lò vi sóng, điện thoại…); soạn và đọc được tin nhắn trên điện thoại hoặc một số loại máy tính; có thể sử dụng mạng internet và một số ứng dụng từ mạng internet (như sử dụng mạng xã hội để giao tiếp, đọc tin tức, xem video…); có thể tham gia một số hoạt động trực tuyến (họp phụ huynh, nộp hồ sơ hành chính, giao dịch điện tử, mua hàng trên mạng…), có năng lực ứng xử hợp lý với các thông tin sai trái, xấu độc, lệch lạc, các biểu hiện không phù hợp chuẩn mực chung; có thể phát huy vai trò quản lý và phản biện xã hội thông qua việc đóng góp ý kiến với chính quyền địa phương thông qua các thiết chế cụ thể (qua tổ dân phố, tiếp xúc cử tri, đường dây nóng của các địa phương, phòng tiếp bạn đọc của một số cơ quan báo chí…) cùng nhiều hoạt động khác gần gũi với đời sống hằng ngày.
Từ đó có thể thấy, “dân trí” là một phạm trù liên quan trực tiếp đến chất lượng sống của một cộng đồng dân cư, là một biểu hiện cụ thể của tính chất văn minh, tiến bộ của người dân trên nhiều phương diện. Như vậy, từ “khai dân trí” của cụ Phan Châu Trinh có thể vận dụng thành “nâng cao dân trí” trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Và, việc nâng cao đó sẽ không có giới hạn, không có điểm dừng.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nêu một số nội dung liên quan đến việc nâng cao dân trí của người dân trong thời gian tới, chẳng hạn: “nâng cao năng lực thích ứng, bảo đảm sinh kế cho người dân ở những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu”; “đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”; “củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục”; “có chính sách đột phá phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đại học”; “chú trọng nâng cao giá trị tư tưởng, nghệ thuật, đồng thời bảo đảm tự do, dân chủ trong sáng tạo văn học, nghệ thuật”; “tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại”…
Một xã hội tiến bộ gắn liền với việc các thành viên trong xã hội đó tiến bộ về mọi mặt, mà dân trí có thể coi là mặt rõ nét nhất. Trong điều kiện hiện nay, các tổ chức đảng phải không ngừng tạo điều kiện để cho dân trí được nâng cao và mỗi đảng viên cũng phải không ngừng tự nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng và các năng lực khác của mình.