Thứ Năm, ngày 18 tháng 12 năm 2025

Từ bài học căn cứ lòng dân của An ninh miền Nam trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, suy nghĩ về xây dựng thế trận an ninh nhân dân hiện nay

Thiếu tướng, PGS.TS Vũ Quang Đạo Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam phát biểu tại hội thảo khoa học lịch sử “Vai trò của lực lượng Công an nhân dân trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968”. Ảnh: Long Hồ
(Thanhuytphcm.vn) - Cách đây gần 50 năm, quân và dân ta đã thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, tiến công vào hầu hết các thành phố, thị xã, đặc biệt là Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng, hầu hết các trung tâm chỉ huy, các căn cứ quân sự của Mỹ và quân đội Sài Gòn. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, chúng ta đã giành được “những thắng lợi to lớn”[1], có ý nghĩa chiến lược cả về chính trị, quân sự và ngoại giao, tạo nên một bất ngờ lớn đối với Mỹ và chính quyền tay sai, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, của ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” và quyết tâm chống Mỹ, cứu nước với tinh thần dũng cảm vô song của đồng bào và chiến sĩ cả nước. Đó là thắng lợi của chiến tranh nhân dân Việt Nam, của An ninh nhân dân trong thời đại mới. Chiến công lừng lẫy của Mậu Thân và cả những hy sinh to lớn của đồng bào, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang và An ninh miền Nam đã đi thẳng vào lịch sử, tạo nên một tượng đài bất tử, một dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ, để lại cho thế hệ hôm nay và mai sau những bài học vô giá. Một trong những bài học ấy là lực lượng An ninh miền Nam đã góp phần xây dựng lực lượng chính trị, sớm thiết lập cơ sở cách mạng trong các tầng lớp nhân dân, gắn bó với dân, tạo nên căn cứ vững chắc trong lòng dân.

Với thất bại của Mậu Thân, Mỹ nhận thấy rằng không thể thắng ta về quân sự, do đó buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, công nhận Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị Paris, để rồi hơn 4 năm sau, sau thất bại của trận “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris, rút quân viễn chinh Mỹ về nước.

Sau thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn, mà thực chất là cứu vãn sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam; cứu vãn danh dự, đế quốc Mỹ đổ quân viễn chinh vào miền Nam, gây chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ với hành động đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tác chiến ở chiến trường miền Nam không những không thể thay đổi thế bị động chiến lược trên chiến trường, mà còn không thể cứu vãn được sự thất bại quân sự, và cùng với nó là sự thất bại về chính trị, ngoại giao.

Nhưng với bản chất ngoan cố, kỳ vọng vào sức mạnh quân sự và kinh tế của một cường quốc, Mỹ cho rằng sức mạnh đó chẳng những “đưa Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”, chặn đứng sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc, mà còn tiêu diệt chủ lực cộng sản, nhanh chóng bình định miền Nam, giành chiến thắng và rút quân Mỹ về nước. Đế quốc Mỹ vẫn ảo tưởng về sức mạnh của mình[2], đồng thời đánh giá thấp đối phương, đặc biệt là Mỹ chưa hiểu, không hiểu về con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam, dân tộc Việt Nam, một dân tộc cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất nhưng cũng rất giàu lòng yêu nước, kiên trung, bất khuất trước kẻ thù xâm lược.

Khi quyết định trực tiếp tham chiến ở Việt Nam, Mỹ không chỉ đổ vào miền Nam đội quân viễn chinh đông đảo mà còn huy động cả những cỗ máy tình báo với những nhân vật sừng sỏ nhất trong lĩnh vực chống Cộng. Vì vậy, thất bại của Mỹ ở Mậu Thân không chỉ là thất bại về quân sự, mà còn là thất bại đau đớn về hoạt động tình báo chiến lược và chiến thuật. Mậu Thân được chúng ta chuẩn bị công phu, trong một thời gian dài, nên khi nổ ra đều nằm ngoài dự báo của các cơ quan tình báo của Mỹ, cả về ý đồ, quy mô, lực lượng và phương thức tác chiến. Sự thất bại của Mỹ trong hoạt động tình báo gắn liền với sự thất bại của các chương trình bình định nông thôn, thể hiện rõ ràng rằng chẳng những Mỹ và chính quyền tay sai không nắm được ý đồ của cộng sản, không nắm được dân, không thể thực hiện được âm mưu “tát nước bắt cá” - đánh bật cộng sản ra khỏi dân, mà còn làm cho dân miền Nam Việt Nam càng gắn bó hơn với cộng sản.

Để đi tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, cùng với toàn dân, toàn quân ta, lực lượng An ninh miền Nam đã chuẩn bị lực lượng từ rất sớm, ngay từ đầu đã gắn bó với dân. Công tác chuẩn bị lực lượng tập trung vào việc nắm dân, xây dựng căn cứ an ninh nhân dân, điệp báo các cấp, nhất là cấp chiến lược. Ngay sau Hiệp định Giơnevơ, trước tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng, Trung ương Đảng đã chủ trương chuyển toàn bộ lực lượng điệp báo của công an và lực lượng tình báo ở miền Bắc bám địch vào miền Nam, đồng thời chỉ đạo cho Đảng bộ ở miền Nam tranh thủ bố trí phần đông cán bộ và cơ sở điệp báo của công an, quân báo nằm lại ở miền Nam mà không đi tập kết. Lực lượng này đã bám dân, kết hợp tuyên truyền, vận động nhân dân, được quần chúng che giấu để hoạt động. Chính vì vậy, mặc dù chính quyền Ngô Đình Diệm ra sức đàn áp, lập ra tổ chức tình báo chiến lược với tên gọi là “Sở nghiên cứu chính trị xã hội”, ở miền Trung chúng lập ra “Đoàn công tác đặc biệt miền Trung” nhằm phát hiện cán bộ, cơ sở cách mạng của ta mà chúng gọi là “Việt cộng nằm vùng”, nhưng về cơ bản số cán bộ an ninh của chúng ta vẫn bám dân, bám địch hoạt động, đưa người của ta vào các tổ chức chính trị của địch, tạo thế hợp pháp che mắt địch. Hàng loạt cán bộ tình báo của ta lúc đó gài vào đã nắm giữ những vị trí then chốt trong hàng ngũ địch. Vũ Ngọc Nhạ từng làm cố vấn cho Nguyễn Văn Thiệu; đồng chí Thúy là cố vấn cho Hòa Hảo; đồng chí Phấn làm Tham mưu trưởng cho Ba Cụt; Phạm Xuân Ẩn làm phóng viên cho nhiều hãng thông tấn nổi tiếng của Anh và Mỹ. Nhiều cán bộ tình báo xuất thân thời kỳ này sau đó đã trở thành Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân[3]. Điển hình là trường hợp đồng chí Phạm Ngọc Thảo còn được chính quyền Diệm mời hợp tác làm chuyên viên cho Diệm trong Phủ Thủ tướng.

Đầu năm 1955, Ban địch tình Xứ ủy được thành lập với các đồng chí Văn Viên làm Trưởng ban, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm, Hoàng Minh Đạo làm Phó ban. Các khu, tỉnh, thành cũng thành lập ban địch tình để lãnh đạo công tác điệp báo, tiếp tục đưa người của ta vào các đô thị, đặc biệt là Sài Gòn, móc nối cơ sở cũ, xây dựng cơ sở mới, bám sát quần chúng, nhất là dân nghèo.

Các lực lượng An ninh miền Nam đã tích cực chuẩn bị lực lượng chính trị và vũ trang, thanh lọc nội gián của địch, tiêu diệt nhiều tên ác ôn đầu sỏ, làm cho quần chúng càng tin vào sự tồn tại của lực lượng cách mạng ngay trong lòng địch. Trong phong trào Đồng khởi, lực lượng an ninh đã hỗ trợ quần chúng diệt ác, phá kềm ở nhiều địa phương; làm tốt công tác bảo vệ các hoạt động tổ chức Đại hội thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, và tham gia giải thoát cho Luật sư Nguyễn Hữu Thọ khỏi sự quản thúc của địch ở Phú Yên về làm Chủ tịch Mặt trận.

Có thể nói, ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng An ninh miền Nam đã bám dân, xây dựng căn cứ ngay trong lòng dân. Nếu không có căn cứ lòng dân đó chắc chắn không thể có hệ thống tình báo các cấp, kể từ cấp chiến lược cho đến tận cơ sở. Nhờ có căn cứ đó, không những có cơ sở, có lực lượng quần chúng tham gia công tác an ninh, mà các hoạt động an ninh gia tăng được hiệu quả nắm địch, rà soát, củng cố nội bộ, tiêu diệt lực lượng tình báo, ác ôn, bảo vệ phong trào quần chúng.

Thực hiện chủ trương của Đảng nhằm tạo một bước ngoặt có ý nghĩa chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cùng các lực lượng khác, lực lượng An ninh miền Nam có nhiệm vụ hướng vào các đô thị, thị xã, thị trấn và các vùng xung yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của quần chúng, đẩy mạnh trừ gian, diệt ác, đánh vào bộ máy kìm kẹp, hạ uy thế địch, tạo thế cho phong trào quần chúng nổi dậy[4]. Đến cuối năm 1967, để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, Ban an ninh tất cả các khu, phân khu đều có kế hoạch toàn diện về công tác bảo vệ, bố trí lực lượng tham gia các mũi tiến công vào các thành phố, thị xã, các vùng nông thôn địch còn tạm chiếm. “Toàn miền Nam đã xây dựng được thêm 117 cơ sở mới và 1.198 cơ sở bí mật trong các cơ quan tình báo, cảnh sát, đoàn bình định, ngụy quyền, đảng phái, tôn giáo, dân tộc. Mạng lưới giao liên được tăng cường, các tổ cơ yếu, điện đài, trinh sát kỹ thuật, thông tin liên lạc được hình thành phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và phục vụ công tác đánh địch”[5].

Đến trước 1968, cơ sở chính trị của lực lượng An ninh miền Nam đã phát triển, không chỉ ở các vùng nông thôn, mà còn đi sâu vào các thành phố, thị xã, nhất là ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Ở nhiều vùng giải phóng sát gần các thành phố, thị xã như Củ Chi (Sài Gòn - Gia Định), Tây Ninh, Long Xuyên, Châu Đốc, an ninh địa phương đã tham gia vận động tân binh, bảo vệ hàng vạn dân công, huy động hàng trăm tàu thuyền đưa đón cán bộ, bộ đội, vận chuyển vũ khí, đạn dược… từ các căn cứ vào thành phố, thị xã. Ở Sài Gòn - Gia Định, cùng với các bộ phận khác, lực lượng an ninh khu và phân khu có hai bộ phận chỉ đạo, bộ phận “xã hội hóa” hoạt động ở nội đô, công khai, hợp pháp; một bộ phận hoạt động ở căn cứ vùng ven hoặc vùng giải phóng. Lực lượng giao liên Sài Gòn đã xây dựng hàng trăm bàn đạp, cơ sở giao liên. Ban an ninh Sài Gòn còn cử bộ phận xuống địa bàn xây dựng căn cứ cho Bộ Tư lệnh tiền phương. Chính các cơ sở này đã góp phần làm cho hoạt động của lực lượng an ninh vũ trang giành được nhiều thành tích to lớn, góp phần làm nên thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, “các Ban an ninh từ Trung ương Cục đến các khu, tỉnh, huyện và cơ sở trong toàn miền Nam đã huy động 3.346 cán bộ, chiến sĩ ra phía trước, kết hợp với lực lượng tại chỗ tiến công mạnh mẽ vào các cơ quan đầu não, bộ máy kìm kẹp, hệ thống giao thông, sân bay, kho tàng, trại giam của Mỹ, ngụy”[6]. Cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân nổi dậy, lực lượng An ninh miền Nam đã bắt, diệt 15.135 tên gián điệp, tình báo các loại, 35 tên CIA, 1.766 cảnh sát, 532 cán bộ bình định nông thôn, 269 tình báo an ninh ngụy, 492 ác ôn, giải thoát 6.678 cán bộ, chiến sĩ bị địch bắt giam giữ[7]. Ở Sài Gòn - Gia Định, Ban an ninh đã thành lập đơn vị an ninh vũ trang với nhiệm vụ đánh vào Tổng Nha cảnh sát và Nha cảnh sát đô thành. Một đội vũ trang an ninh với 12 đồng chí dưới sự chỉ dẫn của nữ chiến sĩ an ninh Đoàn Lệ Phong đã bí mật mở đường đưa một bộ phận của Bộ Tư lệnh tiền phương gồm các đồng chí Sáu Dân, Nguyễn Hộ, Tư Trọng, Hai Trúc … vào khu vực trường đua Phú Thọ, sau đó dựa vào sự bao bọc, che chở của nhân dân đã chiến đấu kiên cường, hy sinh anh dũng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn Bộ Tư lệnh tiền phương 2.

Trong các trận chiến đấu của An ninh miền Nam, nếu so sánh lực lượng, các chiến sĩ an ninh luôn phải trực tiếp chống lại lực lượng địch đông gấp mấy chục lần. Nhưng các trận chiến đấu ấy luôn được sự ủng hộ, bao bọc của nhân dân, kể từ lúc xây dựng tổ chức, chuẩn bị và vận chuyển vũ khí, cung cấp hậu cần, cứu chữa thương binh, che giấu cán bộ, chiễn sĩ sau chiến đấu… Vì vậy, tuy lực lượng nhỏ, nhưng hiệu quả tác chiến rất lớn.

Theo đồng chí Lê Duẩn, Mậu Thân 1968 đã “ném một quả bom vào hang ổ đối phương để làm tung tóe ra những hệ quả chính trị có ý nghĩa”[8]. Mậu Thân năm 1968 không chỉ làm rung động Nhà Trắng và Lầu Năm góc, làm thất bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, mà thắng lợi của Mậu Thân còn đem lại niềm tin của nhân dân với cách mạng nói chung, với lực lượng vũ trang và an ninh nói riêng. Mậu Thân cũng khẳng định rằng, với những căn cứ ngay trong lòng dân, lực lượng vũ trang và an ninh không những có thể tác chiến và giành thắng lợi trên cả ba vùng chiến lược nói chung mà còn có thể đánh thẳng vào các thành phố, thị xã, các trung tâm chỉ huy, các căn cứ quân sự, kể cả trung tâm chính trị, quân sự của địch ở Sài Gòn.

Toàn cảnh hội thảo khoa học lịch sử “Vai trò của lực lượng Công an nhân dân trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968”. Ảnh: Long Hồ Toàn cảnh hội thảo khoa học lịch sử “Vai trò của lực lượng Công an nhân dân trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968”. Ảnh: Long Hồ

50 năm đã trôi qua, nhưng chiến thắng Mậu Thân không những đã được khẳng định mà còn vẫn mãi là mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Các nhà sử học, giới quân sự và tình báo Mỹ vẫn đang cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu cội rễ của sự kiện Mậu Thân, một sự kiện mà kết cục của nó đã đánh dấu sự thất bại thảm hại của lực lượng quân đội viễn chinh và tình báo Mỹ ngay trong việc làm chủ tình hình quân sự và chiến trường trọng điểm như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng; một sự kiện đã làm suy kiệt sức mạnh, danh dự của quân đội Mỹ, của các tướng lĩnh và các nhà tình báo dày dạn kinh nghiệm trận mạc, làm đổ vỡ cả một chiến lược quân sự, chính trị, tình báo của một đế quốc hùng mạnh. Cội nguồn của sức mạnh Việt nam trong cả cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và trong sự kiện Mậu Thân chính là Việt Nam có chính nghĩa, có sức mạnh của nhân dân. Lực lượng vũ trang và an ninh Việt Nam luôn có một căn cứ vững chắc - căn cứ lòng dân. Đó là bức “tường đồng vách sắt” mà không một thế lực nào có thể thắng nổi.

Ngày nay, chúng ta đang xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Trong bối cảnh các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá sự nghiệp đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, chúng ta nhận thức rất rõ rằng quốc phòng, an ninh của Tổ quốc là điều kiện tất yếu để đất nước có môi trường hòa bình, tự do, dân chủ và bình đẳng xã hội, là điều kiện để thu hút đầu tư trong và ngoài nước, phát triển kinh tế xã hội.

Trong sự nghiệp đó, “lấy dân làm gốc” vẫn là bài học lớn, đi mãi với thời gian. Vận dụng kinh nghiệm lịch sử, trong lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Những thành tựu mà nhân dân ta đã giành được trong xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội gắn liền với thành quả của việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Các thế lực phản động, chống phá cách mạng thừa hiểu rằng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của chúng ta bắt nguồn từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Vì vậy, một trong những thủ đoạn hàng đầu của chúng là ra sức tuyên truyền, lừa bịp nhân dân, lôi kéo, kích động nhân dân, gây mâu thuẫn giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, giữa nhân dân với quân đội và công an. Trước đây, khi còn thống trị nhân dân, kẻ thù đã ra sức thực hiện âm mưu “tát nước bắt cá”, bằng cả những thủ đoạn chính trị, kinh tế, bạo lực phản cách mạng, nhưng chúng đã thất bại. Nhờ công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng, vận động nhân dân tham gia đấu tranh và trực tiếp tiêu diệt những tên cầm đầu phản động mà lực lượng An ninh miền Nam đã trụ vững trong lòng dân. Ngày nay, công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng cần đi liền với tăng cường các hoạt động bảo vệ nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Hoạt động đó phải trở thành nhiệm vụ thường xuyên, hàng đầu để xây dựng mối quan hệ gắn bó với nhân dân. Để tạo dựng sự ủng hộ, tham gia tích cực của dân trong những sự kiện lớn thì công tác vận động nhân dân không thể không đi trước, thường xuyên, liên tục.

Trong thời kỳ chiến tranh, lực lượng an ninh đã làm tốt công tác bảo vệ quần chúng, nhờ vậy mà làm tốt công tác bảo vệ tổ chức cách mạng, bảo vệ cán bộ. Khi kẻ thù tìm mọi cách tách cán bộ ra khỏi dân, việc bảo vệ quần chúng cách mạng lại chính là biện pháp bảo vệ cán bộ và tổ chức đảng. Ngày nay, cùng với công an, chúng ta có cả hệ thống chính trị, hệ thống cơ quan tư pháp, tất cả đều hướng tới mục tiêu phục vụ nhân dân, chống lại những âm mưu và hành động phản dân hại nước của các phần tử chống đối. Để củng cố sức mạnh của nền an ninh nhân dân thì bất cứ hành động nào vi phạm quyền lợi và lợi ích chính đáng của dân đều phải bị nghiêm trị. Chỉ có như vậy, nhân dân sẽ thấy công an thật sự là con em của mình.

Trong chiến tranh, nhân dân nuôi dưỡng, che giấu lực lượng an ninh, vận chuyển vũ khí, cứu chữa cán bộ, chiến sĩ an ninh bị thương vì mỗi cán bộ, chiến sĩ an ninh lúc đó thật sự là những tấm gương kiên cường, dũng cảm chiến đấu, sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời vì dân, vì nước. Ngày nay, có biết bao tấm gương cán bộ, chiến sĩ công an chấp nhận khó khăn, gian khổ, nhiều người đã hy sinh cả tính mạng để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Cần nhân lên những tấm gương bình dị mà cao quý, những tấm gương dũng cảm của người chiến sĩ Công an nhân dân trong tình hình mới, đồng thời đấu tranh, phê bình và tự phê bình trong nội bộ, kiên quyết đưa ra khỏi hàng ngũ những người không đủ tư cách người công an cách mạng. Bảo vệ nội bộ trong sạch là một giải pháp rất căn bản để xây dựng lực lượng công an cách mạng, chính quy tinh nhuệ, để có được sự ủng hộ, tin cậy và yêu mến của nhân dân.

Để gắn bó với dân càng cần hiểu dân, hiểu về thực tiễn cuộc sống và chiến đấu của nhân dân. Có thể dẫn thêm về tấm gương của đồng chí Mai Chí Thọ, một trong số những người lãnh đạo khu trọng điểm Sài Gòn - Gia Định trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, sau này là Bộ trưởng Bộ Công an, sau bốn năm giữ chức Bí thư Khu ủy miền Đông Nam Bộ, đồng chí lại trở về Sài Gòn. Ông đã giành hàng tháng trời cuối 1965 “đi một vòng đến các địa phương để nắm tình hình”. “Trong cuộc hành trình kéo dài này, chúng tôi phải đương đầu với nhiều nguy hiểm và gian khổ nhưng cũng nhờ vậy mà có được những cuộc gặp gỡ lý thú đầy ấn tượng và nhất là đã bổ sung rất nhiều cho vốn hiểu biết của tôi về Sài Gòn - Gia Định. Chính những hiểu biết này đã giúp chúng tôi không ít trong thời kỳ chống Mỹ và góp phần đáng kể vào việc quản lý, xây dựng thành phố sau ngày giải phóng”[9]. Gần dân, gắn bó với dân, khi Ông đeo hàm Đại tướng, dân Sài Gòn gọi Ông là “Tướng con dân”.

Căn cứ lòng dân của lực lượng An ninh miền Nam đã làm nên một kỳ tích của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Phát huy truyền thống đoàn kết, “Vì nhân dân phục vụ”, nhất định trong lực lượng Công an nhân dân sẽ xuất hiện nhiều “công an con dân”, cùng nhân dân làm nên những kỳ tích mới trên mặt trận vì an ninh Tổ quốc.

Thiếu tướng, PGS.TS Vũ Quang Đạo

Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam

[1]Hồ Chí Minh toàn tập:  Lời kêu gọi cả nước tiến lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr. 511.

[2]Mỹ đã huy động vào chiến trường Việt nam tới 9 sư đoàn và 5 lữ đoàn, cùng nhiều vũ khí trang bị tối tân nhất. Nếu tính cả 20 vạn quấn Mỹ đóng tại Thái Lan, Philippin, Nhật và ở Hạm đội 7, một bộ phận Hạm đội 6 thì Mỹ đã huy động tới 80 vạn quân vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Bên cạnh quân Mỹ, còn có 68.800 quân Nam Triều Tiên, Ôxtrâylia, Thái Lan, Philipin, Niu Dilân. Xem: Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tập 5, tr. 345.

[3]Xem Hồi ức Mai Chí Thọ - Theo bước chân lịch sử, tập 2, Nxb. Trẻ, tr 72.

[4]Bộ phận thường trực ban Nghiên cứu Tổng kết lịch sử Công an nhân dân phía Nam: An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ 1954 - 1975, Nxb. Công an  nhân dân, Tp. Hồ Chí Minh, 1995, tr. 166.

[5]Bộ phận thường trực ban Nghiên cứu Tổng kết lịch sử Công an nhân dân phía Nam: An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ 1954 - 1975, Sđd,  tr. 167.

[6]Bộ phận thường trực ban Nghiên cứu Tổng kết lịch sử Công an nhân dân phía Nam: An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ 1954 - 1975, Sđd, tr. 173.

[7]Bộ phận thường trực ban Nghiên cứu Tổng kết lịch sử Công an nhân dân phía Nam: An ninh miền Nam thời kỳ chống Mỹ 1954 - 1975, Sđd, tr. 173-174.

[8]Xem Lịch sử Nam Bộ kháng chiến tập II 1954 - 1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.676.

[9]Hồi ức Mai Chí Thọ - Theo bước chân lịch sử, tập 2, Nxb. Trẻ, tr. 133.


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo