67 mùa thu trước, một thanh niên vừa tròn 18 tuổi đã cùng hàng triệu người dân làm nên một Nam bộ kháng chiến lừng lẫy, khiến quân thù phải khiếp vía. Giờ đây, ông đã 85 tuổi, chiến tranh cũng như dư âm của sự kiện hào hùng ấy đã lùi vào dĩ vãng nhưng với ông, không khí sôi sục ngày nào vẫn còn in rõ trong tâm trí. Ông là Nguyễn Hòa Nhã (ảnh), ngụ ở số 81 đường số 3, P. Tân Kiểng, quận 7, một trong số ít những nhân chứng sống của mốc son lịch sử này.
Bước qua chiến tranh
Nhớ lại những ngày ấy, ông Nhã kể lại: “Hàng triệu, hàng triệu người, nam, nữ, già, trẻ… cùng sục sôi trong khí thế đấu tranh, giành độc lập, tự do; cùng hát vang các ca khúc Lên đàng, Quốc ca, Nam bộ kháng chiến… Nam thanh, nữ tú xếp bút nghiêng để tham gia đấu tranh”.
Thời điểm diễn ra Nam bộ kháng chiến, thực dân Pháp bị cô lập tại trung tâm thành phố, bị giới hạn bởi cầu Công Lý, cầu Băng - ki (cầu Thị Nghè), cầu Khánh Hội… Nhân dân thực hiện chiến thuật “vườn không nhà trống, bãi thị, bãi chợ” để cô lập quân địch. Lúc đó, ông tham gia ở mặt trận cầu Phú Nhuận, ngăn cản địch lưu thông qua cầu Phú Nhuận. Nhân dân đã đem cả bàn, ghế, tủ, những vật dụng gia đình để ngăn quân thù.
Tháng 10/1946, sau trận đánh bốt cảnh sát chợ Xã Tài (Chợ Phú Nhuận ngày nay) bị thất bại, ông bị bắt đưa vào Khám Lớn Sài Gòn và ngày 5/8/1947, ông bị đày khổ sai ra Côn Đảo.
Ngục tù tăm tối đâu thể khuất phục được tinh thần của anh bộ đội Cụ Hồ. Nằm trong xà lim, qua song sắt, ông vẫn không thể nào quên khí thế của ngày 23/9/1945. Khí thế sục sôi ấy đã tạo cảm hứng cho ông viết lên những vần thơ:
“Từ nơi xa
Dưới trời mưa
Kìa, tiếng nhạc mùa Thu
Vẫn vẳng tới lao tù
“Mùa Thu rồi, ngày 23
Ta đi theo tiếng gọi sơn hà…(1)”
Anh em ơi!
Nghe sóng ngoài khơi
Không bao giờ tắt
Vẫn vang vang tiếng nhạc
“Đoàn quân Việt Nam đi
Chung lòng cứu quốc…” (2).
(Nhớ nhạc mùa thu)
Bài thơ được ông viết vào năm 1948, mùa thu đầu tiên ở Côn Đảo. Tuy thân ở trong lao ngục tăm tối, nhưng những hình ảnh của ngày 23/9/1945 vẫn rạo rực trong ông và nung nấu trong người lính trẻ một ý chí kiên cường, một lòng yêu nước, căm thù giặc.
Những tháng ngày bị đày ải ở lao tù Côn Đảo đã tôi luyện bản lĩnh của một người lính, một người con yêu nước. Tại chốn ngục tù này, ông cùng các đồng đội đã “xuất bản” tờ báo Lao động khổ sai ở khu công nhân do ông làm chủ bút.
Làm báo thời chinh chiến đã khó, đã khổ nay làm báo nơi lao tù còn khó, còn khổ gấp trăm ngàn lần. Ông kể lại: “Chúng tôi dùng một chiếc khay đổ bột nếp pha bột gạo vào đó cán đều, sau đó, một người viết bài lên tờ giấy trắng với loại mực đậm tiếp theo in tờ giấy đã viết vào khay bột đã được cán đều. Và mỗi tờ giấy như vậy có thể in thành 4-5 tờ báo”. Tuy số lượng phát hành không nhiều nhưng cũng đủ để tuyên truyền về Đảng, về cách mạng và ý nghĩa của cuộc đấu tranh này.
Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, ngày 1/10/1954, ông và các đồng đội được trả tự do tại Sầm Sơn, Thanh Hóa. Được về với cuộc sống tự do, về với cách mạng, về làm anh bộ đội Cụ Hồ, đó là niềm vui khó tả trong cuộc đời ông. Sau đó, ông được biên chế về Trung Đoàn 55, Bộ Tổng Tư Lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Năm tháng trôi qua, người lính trẻ ngày nào bây giờ đã quá trung niên, năm 1975 ông về làm Giám đốc Công ty Cung ứng tàu biển nước ngoài.
Cuộc đời vẫn đẹp sao
Bây giờ ở cái tuổi trên 80 nhưng ông vẫn còn rất yêu đời, vẫn còn muốn cống hiến và tận hưởng những điều tốt đẹp của cuộc sống
Ông chưa muốn “gác bút” an hưởng tuổi già nên có đêm thơ ở đâu là ông đến tham gia, lấy đó làm niềm vui, cái thú tiêu khiển ở tuổi già.
Có lẽ niềm vui đó khiến cho trí nhớ của ông không hề giảm sút, ông vẫn nhớ rõ những chuyện đã diễn ra vài chục năm trước và lấy đó làm động lực để tiếp tục sống, tiếp tục sáng tác: “Bát thập chính niên đủ quá thôi/ hai mùa đánh giặc vẫn chưa toi/ bom kiêng, đạn nể, gông cùm sợ/ vẫn cứ hiên ngang trụ với đời” (Lãi quá rồi).
Ông tặng tôi hai tập thơ và bảo: “Cháu về đọc, xem thơ tù của bác có gì khác với đồng đội không nhé”. Tôi về đọc đi, đọc lại, và nhận ra tính cách của ông. Đó là sự lạc quan, yêu đời, luôn tin vào ngày đất nước sạch bóng quân thù: “Đời tù nghĩ cũng sướng ghê; thằng Tây vác súng hầu kề một bên; canh cho giấc ngủ đêm đêm; cho yên giấc điệp, cho thêm mộng vàng; … Đời tù nghĩ cũng sướng thôi; tha hồ hành hạ giống nòi thực dân”. (Đời tù).
--------------------------------------------------
(1), (2),: lần lượt là các ca khúc Nam bộ kháng chiến (Tạ Thanh Sơn), Quốc ca (Văn Cao).