Chỉ thị số 56-CT/TW nêu rõ, điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế và các tuyên bố, trao đổi thống nhất của lãnh đạo chủ chốt với đối tác nước ngoài (gọi chung là "cam kết quốc tế") là kết quả của hoạt động đối ngoại và công cụ quan trọng để mở rộng, tăng cường quan hệ với các nước và đối tác, tham gia sâu rộng vào tiến trình hội nhập quốc tế, khu vực, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển của đất nước, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, công tác ký kết, thực hiện các cam kết quốc tế thời gian qua còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục chuyển biến nhanh, phức tạp, đặt ra thách thức và cơ hội đan xen, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác ký kết, thực hiện cam kết quốc tế, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm:
1. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên tiếp tục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc ký kết, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế đối với sự phát triển, vị thế, uy tín của đất nước; xác định đây là nhiệm vụ quan trọng trong tổng thể chủ trương, đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia.
2. Đẩy mạnh công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, đôn đốc hoạt động ký kết, thực hiện cam kết quốc tế, bảo đảm tuân thủ các chủ trương, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; góp phần đưa quan hệ của Việt Nam với các nước và đối tác đi vào chiều sâu, thực chất, củng cố môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển; tranh thủ các xu hướng phát triển mới, nâng cao khả năng ứng phó các vấn đề đang nổi lên; chủ động tham gia xây dựng trật tự quốc tế công bằng, dân chủ, tiến bộ, phù hợp với lợi ích của Việt Nam.
Kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về chủ trương ký kết, thực hiện cam kết quốc tế; ngăn chặn các âm mưu, hoạt động lợi dụng cam kết quốc tế để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền và phổ biến nội dung các cam kết quốc tế, hướng tới các đối tượng thụ hưởng hoặc chịu tác động; bảo đảm thực chất, hiệu quả.
3. Rà soát, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cải tiến quy trình để tạo điều kiện thuận lợi cho việc ký kết, thực hiện cam kết quốc tế; tăng cường quản lý nhà nước, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tinh giản thủ tục hành chính để tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế trong công tác ký kết, thực hiện cam kết quốc tế; bảo đảm hiệu quả của việc đánh giá tác động, tính tương thích giữa các cam kết quốc tế và pháp luật trong nước; thiết lập cơ chế tham khảo ý kiến, tiếp nhận phản hồi về các khó khăn, vướng mắc của các đối tượng thụ hưởng hoặc chịu tác động (nhất là doanh nghiệp, người dân), chuyên gia, học giả và các tổ chức xã hội.
4. Nâng cao trách nhiệm, tinh thần chủ động của cơ quan chủ trì trong việc lập kế hoạch đàm phán, ký, triển khai cam kết quốc tế với lộ trình cụ thể, đặc biệt trong các hoạt động đối ngoại cấp cao, tạo chuyển biến thực chất, rõ nét trong công tác đề xuất ký kết, thực hiện cam kết quốc tế. Cụ thể hóa các cam kết quốc tế được ghi nhận trong các tuyên bố, trao đổi thống nhất của lãnh đạo chủ chốt với đối tác nước ngoài vào các chương trình hành động, kế hoạch công tác của các ban, bộ, ngành, địa phương hoặc vào các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế.
Các ban, bộ, ngành, địa phương chủ động rà soát các cam kết quốc tế đã có thuộc phạm vi, lĩnh vực phụ trách, đánh giá những mặt đã làm được, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và xác định giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả thực thi; tăng cường phối hợp để triển khai công tác ký kết, thực hiện cam kết quốc tế hiệu quả, tránh trùng lặp, chồng chéo.
5. Bố trí, bảo đảm nguồn lực cần thiết, phù hợp cho công tác ký kết, thực hiện cam kết quốc tế; sử dụng hiệu quả các quỹ, hỗ trợ quốc tế, sự đóng góp của doanh nghiệp trên cơ sở tuân thủ các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia, cán bộ có bản lĩnh, phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, vững vàng về năng lực chuyên môn, chuyên sâu về luật pháp quốc tế, kinh tế quốc tế, quan hệ quốc tế và các lĩnh vực chuyên ngành. Huy động sự tham gia phù hợp của các chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu, tham mưu, đề xuất ký kết, thực hiện các cam kết quốc tế phức tạp, có tác động lớn, đan xen trên nhiều lĩnh vực.
6. Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc thực thi các cam kết quốc tế. Tranh thủ tri thức và kinh nghiệm quốc tế; lựa chọn và tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn xây dựng pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, môi trường, KH-CN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, không gian mạng… để kịp thời cập nhật các quy định, chuẩn mực quốc tế mới, tiếp thu chọn lọc cách làm hay, phù hợp với thực tiễn của đất nước. Tận dụng các cơ chế hợp tác song phương và đa phương để xử lý các vướng mắc, vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các cam kết quốc tế.
7. Ứng dụng KH-CN, đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quản lý, theo dõi, thống kê tình hình thực hiện các cam kết quốc tế và đánh giá tính tương thích giữa các cam kết quốc tế với pháp luật trong nước. Thực hiện tốt công tác lưu trữ, hệ thống hóa thông qua việc xây dựng cơ sở dữ liệu về các cam kết quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán trong việc triển khai các cam kết quốc tế liên quan đến nhiều ngành, địa phương, tránh chồng chéo, lãng phí nguồn lực.