Chủ Nhật, ngày 14 tháng 12 năm 2025

Sức mạnh chính trị, tinh thần - nhân tố quyết định thắng lợi cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Sau khi đánh chiếm Hóc Môn, Quân Giải phóng Mặt trận Gia Định đánh địch phản công. Ảnh tư liệu: TTXGP

1. Cách đây 50 năm, vào đêm ngày 30 rạng ngày 31-1-1968 (đêm mồng một Tết Mậu Thân), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đã diễn ra trên ba vùng chiến lược: nông thôn đồng bằng, đô thị và miền núi. Tại địa bàn đô thị, quân và dân ta đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4/6 thành phố lớn, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định và Huế, 37/44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn ở miền Nam Việt Nam. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã tiến công vào nhiều cơ quan đầu não của địch, như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tổng nha Cảnh sát, Đài Phát thanh Sài Gòn,... Tại địa bàn nông thôn đồng bằng, được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quần chúng nhân dân đã nổi dậy, đập tan bộ máy chính quyền của địch ở nhiều nơi, giành quyền làm chủ, xây dựng, củng cố và mở rộng vùng giải phóng.

Lần đầu tiên sau nhiều năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, toàn bộ hệ thống phòng thủ đô thị của quân Mỹ, chính quyền và quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã bị quân ta tiến công; hậu phương, hậu cứ chiến tranh của địch trở thành chiến trường - nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trong nhiều ngày, có nơi kéo dài hàng tháng.

Quân và dân ta đã đánh mạnh, đánh hiểm, đánh trúng vào 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8/11 bộ tư lệnh sư đoàn quân ngụy Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh dã chiến của Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, các tiểu khu, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự, kho tàng, sân bay, bến cảng, đường giao thông; tiêu diệt nhiều tên địch, phá hủy hơn 34% vật tư, phương tiện chiến tranh của quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn, đưa chiến tranh cách mạng vào trung tâm thành phố, nơi đầu não của kẻ thù, làm rối loạn hậu phương địch; giáng đòn chí mạng và làm suy giảm uy thế của quân đội Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được ghi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam như là một mốc son chói lọi, một chiến thắng mang tính quyết định: đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, tạo nên bước ngoặt của chiến tranh, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, thương lượng với ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta là một cuộc tập dượt lớn chuẩn bị cho giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân 1975.

Sức mạnh làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta là sức mạnh tổng hợp của đất nước, trong đó sức mạnh chính trị, tinh thần được phát huy cao độ, là nhân tố có vai trò quyết định, được thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:

Một là, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là động lực to lớn, chiếm ưu thế tuyệt đối so với quân Mỹ và tay sai trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Xem xét nguyên nhân thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nếu chỉ dựa trên quan điểm vũ khí luận thì không thể đưa ra được lời giải đáp đúng đắn. Bởi vì, vào cuối năm 1967, ở chiến trường miền Nam Việt Nam, chính quyền Mỹ đã huy động 480.000 quân Mỹ (70% lục quân, 60% không quân, 40% hải quân, 60% lực lượng lính thủy đánh bộ); 68.800 quân của các nước chư hầu; 552.000 quân của quân đội ngụy quyền để thực hiện mục tiêu thôn tính nước ta. Trong tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra thì đối phương có ưu thế hơn ta về quân số, vũ khí và trang bị kỹ thuật quân sự.

Trong chiến tranh, để giành thắng lợi, nhất thiết phải tạo ra sức mạnh vượt trội so với kẻ thù. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là cơ sở, "chất keo" kết dính các nhân tố khác, quy tụ, tập hợp, khơi dậy và nhân lên sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, sức mạnh vật chất và tinh thần của dân tộc, làm chuyển hóa lực lượng, thế trận, tạo ra ưu thế vượt trội về mọi mặt so với quân địch. Vì vậy, sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là một trong những nhân tố có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Sức mạnh chính trị, tinh thần đã góp phần làm nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, là sự kết tinh, hội tụ ý chí quyết tâm đánh giặc và thắng giặc của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam và sự kiên trung, anh dũng, kiên quyết chống kẻ thù xâm lược, cứu nước, cứu nhà của nhân dân cả nước; là sức mạnh tổng hợp của đất nước và của chế độ xã hội chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại.

Đánh giá nguyên nhân thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Thắng lợi đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn và của sức mạnh toàn dân đoàn kết quyết chiến quyết thắng, thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp"[1].

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là sự hội tụ và phát huy cao độ sức mạnh chính trị, tinh thần của dân tộc, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hai miền Nam, Bắc nhằm thực hiện mục tiêu chính nghĩa, thiêng liêng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Với lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm sắt đá, quân và dân ta luôn tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; giành độc lập, tự do cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong phong trào Đồng khởi những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, sau đó là các chiến thắng Ấp Bắc, Vạn Tường, chiến thắng trong chiến dịch mùa khô năm 1967 đã góp phần làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ cũng như thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc là thực tế sinh động, phản ánh "ưu thế tuyệt đối" về chính trị, tinh thần của quân và dân ta so với quân xâm lược và bè lũ tay sai.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ưu thế tuyệt đối về sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là ưu thế về sức mạnh của "lòng dân", của những người chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng cao cả; ưu thế về tinh thần, ý chí quyết tâm chiến đấu của những người dân yêu nước, đầy khát vọng và mong muốn sống trong hòa bình, độc lập, tự do; kiên quyết chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thể hiện rõ ở chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của nhân dân ta.

Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta luôn được tăng cường trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và được phát huy cao độ, trở thành sức mạnh to lớn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Dựa trên sức mạnh chính trị, tinh thần, quân và dân ta đã tạo ra thế và lực để mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhờ đó, thế và lực của ta không ngừng phát triển, tạo ra những tiền đề mới để giải phóng miền Nam.

Hai là, sức mạnh chính trị, tinh thần là nhân tố quyết định chuyển hóa lực lượng, thế trận, tạo ra ưu thế vượt trội so với quân địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Tinh thần yêu nước, tình yêu quê hương, khát vọng sống hòa bình, độc lập dân tộc và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; sự giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và lẽ sống của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đã được phát huy và nhân lên thành sức mạnh, góp phần chuyển hóa thế trận, tạo ra ưu thế vượt trội so với quân địch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Trong năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc đã được biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật để bổ sung cho mặt trận Trị - Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên hơn 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích và tự vệ). Trong hai năm 1967 và 1968, các chiến sĩ vận tải, thanh niên xung phong, hải quân ở miền Bắc đã vượt Trường Sơn và biển cả để chi viện cho chiến trường miền Nam: 118.923 tấn vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh..., đã phục vụ đắc lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Sức mạnh chính trị, tinh thần của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là động lực có uy thế tuyệt đối để quân và dân ta vượt mọi thử thách, khó khăn, gian khổ; phát huy cao nhất tinh thần chủ động, sáng tạo trong chiến đấu, nâng cao hiệu quả sử dụng vũ khí, trang bị để tìm ra cách đánh hay, phù hợp, giành được thắng lợi. Lý tưởng, lẽ sống "cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù", tinh thần "cả nước ra quân, toàn dân đánh giặc" của quân và dân ta được phát huy cao độ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Sự dũng cảm, kiên cường, mưu trí và sáng tạo trong chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trên khắp miền Nam trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là biểu hiện sinh động của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Hình ảnh anh Giải phóng quân mặc dù đã hy sinh khi tiến công địch ở sân bay Tân Sơn Nhất, nhưng tay vẫn ôm chặt súng hướng nòng về phía địch làm cho kẻ thù khiếp sợ, được nhà thơ Lê Anh Xuân khắc họa trong bài thơ Dáng đứng Việt Nam, nói lên sự hiên ngang, bất khuất của các chiến sĩ Giải phóng quân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 [2].

Sức mạnh chính trị, tinh thần to lớn của quân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã được những người bên kia chiến tuyến thừa nhận và khâm phục. Thượng nghị sĩ R.Kennơđi đã phải thốt lên rằng: "Tại sao nửa triệu lính Mỹ, có 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và ngoài biển, được cung cấp đầy đủ trang bị, vũ khí hiện đại lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công". Trung tướng B.Traino, người từng có mặt ở chiến trường miền Nam Việt Nam, nhận xét: "Tôi thấy cuộc kháng chiến của Việt Nam có nét tương đồng với chiến tranh giành độc lập của Hoa Kỳ. Cũng như các nhà cách mạng Mỹ thời đó, người Việt quyết chiến đến cùng. Những người dân Mỹ hồi đó đã đi tới một quyết định rằng độc lập là thiết yếu. Họ đặt cược tính mạng và của cải của mình vào sự nghiệp giành độc lập...". Sau này, trong hồi ký, Tổng thống Mỹ L.B.Giônxơn xác nhận: Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là "một sự choáng váng đối với tất cả người Mỹ", "cố gắng của đối phương đã gây ra một hậu quả tác động xấu đến một số người trong và ngoài Chính phủ", nhân dân Mỹ và một số nhân vật trong chính quyền bắt đầu nghĩ rằng chúng ta đã thất bại".

Ba là, sức mạnh chính trị, tinh thần đã quy tụ, khơi dậy và phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.

Khát vọng sống hòa bình và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của quân và dân ta được tập hợp, khơi dậy và phát huy cao độ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Vào thời điểm ấy, Nghị quyết của Bộ Chính trị về "Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam" (12-1967), đã xác định chủ trương: Động viên những nỗ lực lớn nhất của quân dân hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của quân và dân ta lên bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi. Khẩu hiệu trung tâm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy được Nghị quyết xác định là: Độc lập, tự do, hòa bình, cơm áo, ruộng đất, chấm dứt chiến tranh xâm lược, đế quốc Mỹ rút quân về nước, chủ quyền thuộc về người Việt Nam.

Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Quân giải phóng miền Nam đã huy động được phần lớn nhân dân trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm vào nội đô, cất giấu và cứu thương, tải thương khi chiến sự nổ ra, và xây dựng được phong trào "hũ gạo nuôi quân". Lực lượng quần chúng kết hợp với các đơn vị vận tải của Quân giải phóng đã chuyển hàng trăm tấn hàng từ vùng Mỏ Vẹt xuống vùng Tây Nam Sài Gòn. Quân giải phóng đã huy động hàng trăm xe bò chở hàng từ Mỏ Vẹt xuống Hóc Môn, Gò Vấp. Trước Tết Mậu Thân, mỗi gia đình để sẵn năm lon gạo đón chủ lực, sau đó, cứ mỗi tuần lại quyên góp một lần (do Hội Phụ nữ phát động). Các huyện đều thành lập đội cung cấp để huy động lương thực, thực phẩm trong nhân dân phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Mỗi xã có ban quân lương, đội cứu thương, tải thương. Các gia đình đều đào sẵn hầm để nuôi giấu thương binh hoặc chôn giấu vũ khí...

Đánh giá hiệu quả tham gia của quần chúng nhân dân trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Đại tướng Lê Đức Anh viết: "Quần chúng đã tham gia tích cực vào cuộc chuẩn bị cho đợt tiến công này và sau khi nổ súng đã tham gia đông đảo bằng nhiều hình thức trên nhiều lĩnh vực. Nhân dân đã trinh sát, nắm tình hình, dẫn đường, che giấu bộ đội và tích cực tham gia chiến đấu, tiếp tế cơm nước cho bộ đội, nuôi dưỡng thương binh rồi đưa về căn cứ. Nhiều người, nhiều trường hợp cả gia đình bị bắt, khủng bố, tù đày... vẫn một lòng hướng về cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước"[3].

Nhờ xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân và sự giúp đỡ tận tình, có hiệu quả của quần chúng nhân dân nên Quân giải phóng đã đồng loạt nổ súng và tiến công địch trên các địa bàn rộng khắp miền Nam. Điều này khiến cho quân địch kinh hoàng, khiếp sợ. Sự ủng hộ của nhân dân miền Nam đối với Quân giải phóng được nhà sử học Nguyễn Hiến Lê viết trong hồi ký: "Khắp thế giới ngạc nhiên và phục "Việt cộng" tổ chức cách nào mà Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không hay biết gì cả. Họ đã lén chở khí giới, đưa cán bộ vào Sài Gòn, Huế... từ hồi nào, chôn giấu, ẩn núp ở đâu? Chắc chắn dân chúng đã che chở họ, tiếp tay với họ, không ai tố cáo cho nhà cầm quyền biết. Trái lại, mỗi cuộc hành quân lớn nhỏ nào của Việt Nam Cộng hòa họ đều biết trước ngày và giờ để kịp thời đối phó. Nội điểm đó thôi cũng đủ cho thế giới biết họ được lòng dân miền Nam ra sao và tại sao Mỹ thất bại hoài"[4].

2. Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, là ưu thế tuyệt đối của ta so với quân địch, là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, qua đó đã chứng minh quan điểm đúng đắn của V.I. Lênin về vai trò của nhân tố tinh thần: "Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của những người anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng được những khó khăn chưa từng thấy"[5]. Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 được nhân lên và phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và là nhân tố quyết định thắng lợi của Đại thắng mùa Xuân 1975, "đánh cho ngụy nhào", giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nhiều thuận lợi, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia - dân tộc, tranh chấp lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt với các thách thức an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống và các hình thái chiến tranh kiểu mới. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, ngày càng phức tạp hơn. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước ngày càng được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và gay gắt hơn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp hơn. Điều đó tác động, ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Vai trò sức mạnh chính trị, tinh thần làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho thấy, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai nếu xảy ra, có thể kẻ thù vẫn chiếm ưu thế về vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, nhưng ưu thế tuyệt đối về chính trị, tinh thần cũng như sức mạnh tổng hợp vẫn thuộc về quân và dân ta. Đây là cơ sở vững chắc để củng cố lòng tin của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, để tăng cường sức mạnh chính trị, tinh thần, làm cơ sở nâng cao sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành ở Trung ương và địa phương, cả hệ thống chính trị phải thật sự quan tâm chăm lo xây dựng "thế trận lòng dân", phát huy sức mạnh nhân tố chính trị, tinh thần trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc biệt chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, truyền thống chống giặc ngoại xâm, ý thức tự lực, tự cường; chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, xây dựng "thế trận lòng dân", tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân. Xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Thượng tướng Lương Cường
Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

----------------------

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.512.

[2] "Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất/Nhưng Anh gượng đứng lên tỳ súng trên xác trực thăng/Và Anh chết trong khi đang đứng bắn/Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng/Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hang/Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn/Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm/Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công". (Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân)

[3] Lê Đức Anh: Suy nghĩ về chiến thắng trong Tết Mậu Thân 1968, in trong 50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - những giá trị lịch sử, Nxb. Hồng Đức, 2017.

[4] Xem Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993.

[5] V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.41, tr.147.


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo