Bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng
Với 434/443 đại biểu tham gia biểu quyết, chiếm 91,75%, Quốc hội thông qua dự thảo Luật An ninh mạng.
Luật gồm 8 Chương và 45 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2026; tạo hành lang pháp lý vững chắc, nâng cao năng lực bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và thúc đẩy phát triển kinh tế số bền vững.
Dự thảo Luật được xây dựng trên cơ sở hợp nhất Luật An ninh mạng năm 2018 và Luật An toàn thông tin mạng năm 2015. Việc hợp nhất này nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành, đồng thời thực hiện tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW về tinh gọn bộ máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Nguyên tắc xuyên suốt là "một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính," đảm bảo phân công, phân cấp rõ ràng giữa các Bộ, ngành, tránh chồng chéo chức năng nhiệm vụ.
Luật có một số điểm mới nổi bật. Luật quy định rõ Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về an ninh mạng. Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm quản lý hệ thống thông tin quân sự; Ban Cơ yếu Chính phủ quản lý hệ thống thông tin cơ yếu và mật mã. Quy định này nhằm giải quyết tình trạng chồng chéo, đảm bảo sự chỉ huy, điều phối thống nhất trong bối cảnh các mối đe dọa an ninh mạng mang tính toàn cầu.
Mở rộng phạm vi và đối tượng bảo vệ, Luật là bổ sung quy định cụ thể về bảo vệ nhóm người yếu thế trên không gian mạng. Bên cạnh trẻ em, Luật mở rộng bảo vệ đối với người cao tuổi và người gặp khó khăn về nhận thức. Đối với trẻ em, Điều 16 quy định chi tiết về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và gia đình trong việc ngăn chặn thông tin xâm hại, thiết lập công cụ kỹ thuật hỗ trợ và xử lý nghiêm các hành vi xâm hại trẻ em trên không gian mạng.
Luật cũng nội luật hóa cam kết quốc tế và tăng cường hợp tác an ninh mạng. Cụ thể, Luật đã rà soát và nội luật hóa các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng (Công ước Hà Nội) mà Việt Nam là thành viên, tạo hành lang pháp lý cho việc chia sẻ thông tin, phối hợp điều tra và phòng chống tội phạm mạng xuyên biên giới.
Để đảm bảo nguồn lực thực thi, Luật quy định mức tối thiểu kinh phí dành cho bảo vệ an ninh mạng. Cụ thể, cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước phải bố trí tối thiểu 15% tổng kinh phí thực hiện chương trình, đề án, dự án đầu tư chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin cho an ninh mạng. Đây là sự nâng mức so với các đề xuất trước đó (từ 10% lên 15%) để phù hợp với yêu cầu thực tiễn và tính chất sống còn của an ninh mạng trong kỷ nguyên số.
Về bảo đảm an ninh dữ liệu, Luật dành riêng Điều 26 quy định về "Bảo đảm an ninh dữ liệu", bao gồm xây dựng chính sách, áp dụng biện pháp kỹ thuật, sử dụng mật mã và kiểm soát dữ liệu xuyên biên giới. Khái niệm "An ninh dữ liệu" cũng được định nghĩa rõ ràng tại Điều 2, nhấn mạnh vào bảo đảm chất lượng và bảo vệ dữ liệu phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Hệ thống thông tin được phân loại theo 5 cấp độ căn cứ vào mức độ tổn hại tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nếu bị sự cố. Quy định này giúp xác định trọng tâm bảo vệ và áp dụng các biện pháp quản lý tương xứng.
Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang phát biểu. (Ảnh: TTXVN)Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong bảo vệ bí mật nhà nước
Với 434/436 đại biểu tham gia biểu quyết, chiếm 91,75%, Quốc hội thông qua dự thảo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi). Luật gồm 5 chương và 28 điều; có hiệu lực thi hành từ ngày 1/3/2026.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội và yêu cầu thực tiễn, Luật có nhiều điểm mới quan trọng về phạm vi, công nghệ và cải cách hành chính. Theo đó, Luật đã bổ sung và giải thích rõ các thuật ngữ như “Văn bản điện tử bí mật nhà nước” (văn bản chứa bí mật nhà nước dưới dạng dữ liệu số) và “Mạng LAN độc lập” (mạng nội bộ không kết nối Internet/viễn thông) nhằm bao quát quản lý cả dữ liệu số.
Một điểm mới đáng chú ý là Luật bổ sung quy định nghiêm cấm hành vi sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) hoặc công nghệ mới để xâm phạm bí mật nhà nước. Luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc triển khai, sử dụng hệ thống AI hoặc công nghệ mới trong hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước.
Luật đã chỉnh lý quy định về phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực như lập pháp, giám sát, tài chính, ngân sách, nông nghiệp, môi trường... theo hướng giới hạn và thu hẹp. Điều này nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin và hội nhập quốc tế. Phạm vi bí mật nhà nước được xây dựng theo hướng định chung, khái quát để nhận diện.
Luật cũng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và cắt giảm thủ tục hành chính, khi bãi bỏ quy định ủy quyền xác định bí mật nhà nước để đơn giản hóa thủ tục; người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trực tiếp xác định bí mật nhà nước; phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền cho phép sao, chụp và tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước, trao quyền quyết định tiêu hủy tài liệu cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức (đối với trường hợp không cần lưu giữ) và quy định cụ thể hội đồng tiêu hủy.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Bảo vệ bí mật nhà nước (sửa đổi). (Ảnh: TTXVN)Luật bổ sung, làm rõ các hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến việc thu thập, trao đổi, cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước trái pháp luật với bên thứ ba mà không có thỏa thuận bảo mật.
Cũng trong sáng 10/12, với 425/433 đại biểu tham gia biểu quyết, chiếm 89,85%, Quốc hội thông qua dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 10 luật có liên quan đến an ninh, trật tự, gồm 11 điều. Trong đó, sửa đổi, bổ sung Luật Cảnh vệ với bổ sung quy định về chế độ, biện pháp cảnh vệ bảo đảm phù hợp với Quy định 368 của Bộ Chính trị về danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Với đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội thông qua dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Dự thảo Luật được thiết kế ngắn gọn gồm 2 điều. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026. Riêng các quy định về quy hoạch và tài chính sẽ có hiệu lực muộn hơn, từ ngày 1/3/2026.
Việc thông qua dự án luật này nhằm quy phạm hóa chủ trương của Đảng về xây dựng công nghiệp an ninh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo môi trường phát triển công nghiệp an ninh phục vụ toàn hệ thống chính trị và hướng tới xuất khẩu. Nội dung luật đảm bảo tuân thủ Hiến pháp, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Với 440/444 đại biểu tham gia biểu quyết, chiếm 93,02%, Quốc hội thông qua dự thảo Luật phòng, chống ma túy (sửa đổi). Luật gồm 8 chương, 56 điều; trong đó bổ sung mới 11 điều, sửa đổi 40 điều, bãi bỏ 10 điều và giữ nguyên 5 điều so với luật hiện hành.
Việc sửa đổi toàn diện Luật lần này nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về hoàn thiện sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy và hệ thống chính trị; tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý trong phòng ngừa đấu tranh với tội phạm ma túy; giải quyết những khó khăn vướng mắc xuất phát từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy và công tác quản lý sau cai nghiện ma túy.
Một trong những quy định mới của Luật là quy định biện pháp giám sát điện tử. Theo đó, cơ quan chủ trì soạn thảo đã bổ sung các đánh giá tác động về thực hiện giám sát điện tử như: đối tượng tác dụng, dự báo số lượng người áp dụng, nguồn lực thực hiện và các tác động khi áp dụng biện pháp (trong đó có tác động về quyền con người).
Luật đã bổ sung quy định theo hướng xác định về đối tượng áp dụng, thẩm quyền áp dụng, trách nhiệm của người bị giám sát điện tử và giao Chính phủ quy định chi tiết về thiết bị, phương tiện, quy định điều kiện, thời hạn, trình tự, thủ tục xử lý vi phạm trong việc áp dụng biện pháp giám sát điện tử.