Thứ Ba, ngày 9 tháng 12 năm 2025

Quốc hội khóa I với đồng bào dân tộc thiểu số

Ông Y Ngông Niê Kdăm (trái) và nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ông Y Ngông Niê Kdăm (1922 - 2001) là một trong những đại biểu Quốc hội tiêu biểu, khi tham gia Quốc hội liên tục từ khóa I đến khóa IX, từng là Ủy viên Hội đồng Nhà nước, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. (Ảnh tư liệu)

(Stxdd.thanhuytphcm.vn) - Quốc hội khóa I (1946 - 1960) đã tạo nên sự thay đổi quan trọng đối với đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta.

Những đại biểu Quốc hội là đồng bào dân tộc thiểu số

Ngày 6/1/1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên diễn ra trên  cả nước, đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 34 đại biểu dân tộc thiểu số. Nổi bật nhất trong số đó là các vị đại biểu Quốc hội dưới đây:

Ông Nay Phin (sinh năm 1919), dân tộc Gia Rai, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Pleiku. Trước khi trở thành đại biểu Quốc hội, ông là Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện Chơ Rao, Pleiku.

Ông Y Wang MLô Duôn Du (sinh năm 1911), dân tộc Ê Đê, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Đắk Lắk, từng là Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện M'đak, Đắk Lắk.

Ông Y Ngông Niê Kdăm (sinh năm 1922), dân tộc Ê Đê, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Đắk Lắk, từng là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Đắk Lắk.

Ông Mong Thoong (sinh năm 1920), dân tộc Ba Na, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Bình Định, từng là Trung đội phó Giải phóng quân.

Ông Sầm Văn Ngữ (sinh năm 1903), dân tộc Sán Chay, đại biểu Quốc hội tại Phú Thọ, từng là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Đoan Hùng, Phú Thọ.

Ông Trần Đình Khánh (sinh năm 1903), dân tộc Tày, đại biểu Quốc hội tại Yên Bái, từng là Ủy viên Ủy ban Liên Việt, Chủ tịch Ủy ban nhân dân lâm thời tỉnh Yên Bái.

Ông Nông Văn Lạc (sinh năm 1914), dân tộc Tày, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Bắc Kạn, từng là Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh Bắc Kạn.

Ông Nguyễn Tri Phương (sinh năm 1916), dân tộc Tày, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Hà Giang, từng là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang, Phó Chủ tịch kiêm Phó Tư lệnh khu Việt Bắc.

Ông Lê Huyền Trang (sinh năm 1913), dân tộc Tày, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Lạng Sơn, từng là Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Lạng Sơn.

Ông Lương Như Ý (sinh năm 1900), dân tộc Tày, đại biểu Quốc hội tại Lạng Sơn, từng là Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh Lạng Sơn.

Ông Điêu Chính Chân (sinh năm 1906), dân tộc Thái, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Lai Châu, từng là Chủ tịch Ủy ban lâm thời châu Quỳnh Nhai, Lai Châu.

Ông Sa Văn Minh (sinh năm 1896), dân tộc Thái, đại biểu Quốc hội tại Sơn La, từng là Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Mộc Châu, Sơn La.

Ông Điêu Chính Thu (sinh năm 1922), dân tộc Thái, đại biểu Quốc hội tại Lai Châu, từng là Ủy viên quân sự huyện Quỳnh Nhai, Lai Châu.

Ông Hoàng Mậu Thành (sinh năm 1909), dân tộc Hoa, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Hải Ninh, từng là Ủy viên Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Ninh.

Ông Quách Công Chẩm (sinh năm 1924), dân tộc Mường, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Hòa Bình (là một trong 2 đại biểu trẻ tuổi nhất của Quốc hội khóa I, người kia là nhà thơ Nguyễn Đình Thi), từng là Ủy viên Ủy ban Hành chính tỉnh Hòa Bình.

Ông Phạm Thúc Tiêu (sinh năm 1901), dân tộc Mường, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Thanh Hóa, từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa.

Ông Dương Đại Lâm (sinh năm 1914), dân tộc Nùng, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Cao Bằng, từng là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hà Quảng, Chi đội trưởng Giải phóng quân Hà Quảng, Cao Bằng.

Ông Nguyễn Trung Thành (sinh năm 1908), dân tộc Nùng, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Thái Nguyên, từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.

Ông Lâm Trọng Thư (sinh năm 1923), dân tộc Nùng, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Lạng Sơn, từng là cán bộ Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Lạng Sơn.

Ông Giàng Văn Pao (sinh năm 1909), dân tộc H’Mông, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Cao Bằng, từng là Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh Cao Bằng.

Ông Vương Chí Thành (sinh năm 1888), dân tộc H’Mông, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, đại biểu Quốc hội tại Hà Giang, từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện Đồng Văn, Hà Giang.

Ông Siểng (sinh năm 1913), dân tộc Khmer, đại biểu Quốc hội tại Biên Hòa, bị giặc Pháp giết hại năm 1947. Trước khi trở thành đại biểu Quốc hội ông công tác dân vận trong vùng dân tộc thiểu số.

Đại đoàn kết phục vụ kháng chiến, kiến quốc

Trong Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku (19-4-1946),  Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định các dân tộc đều là anh em, phải đoàn kết để xây dựng, bảo vệ đất nước: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. (…) Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại biểu các dân tộc. Chính phủ thì có "Nha Dân tộc thiểu số" để săn sóc cho tất cả các đồng bào. Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta. Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”[1].

Ngày 3/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 58 tổ chức Bộ Nội vụ trong đó có Nha Dân tộc thiểu số với chức năng, nhiệm vụ: “Xem xét các vấn đề chính trị và hành chính thuộc về các dân tộc thiểu số trong nước và thắt chặt tình thân thiện giữa các dân tộc sống trên đất Việt Nam”.

Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”, “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”, “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình”. Hiến pháp năm 1946 còn khẳng định: “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung”. Để tạo điều kiện nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc thiểu số và bảo tồn tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, Hiến pháp năm 1946 còn hiến định tại Điều 15: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình”.

Nhìn lại lịch sử 75 năm của Quốc hội Việt Nam, số đại biểu là đồng bào dân tộc thiểu số tăng dần. Chẳng hạn, Quốc hội khóa II (1960 - 1964) có số đại biểu là đồng bào dân tộc thiểu số là 56; Quốc hội khóa III (1964 - 1971) có 60; Quốc hội khóa IV (1971 - 1975) có 73… Hiện nay, Quốc hội khóa XIV (2016 - 2021) có 86 đại biểu là đồng bào dân tộc thiểu số.

Từ khóa I đến khóa XIV, đã có 49/53 đồng bào dân tộc thiểu số có đại biểu tham gia Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội là đồng bào dân tộc thiểu số đã đóng góp công sức để củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc ngày càng vững mạnh; động viên đồng bào tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; không nghe theo lời kẻ xấu; đoàn kết, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, chung tay xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Nguyễn Văn Toàn

-------------------------------------------
[1]
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.217-218.


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo