Tình cảm đặc biệt
Nhà thơ Tố Hữu dành một tình cảm đặc biệt thiêng liêng thể hiện qua những bài:
Cách mạng Tháng Mười
Đảng Cộng sản Liên Xô từ đó
Với Lênin, làm lại loài người
Với Lênin, làm thế kỷ hai mươi
Trong đêm tối, mở chân trời hừng hực
(Với Lênin, 1958)
Ta sống lại, làm người, được sống
Ta đứng lên vĩnh viễn là người
Trái đất bỗng giật mình chuyển động
Từ hôm nay, Cách mạng tháng Mười
(Bay cao, 1959)
Trời sắp rạng đông
Lênin bước đi, sôi nổi, giữa rừng thông
Cỏ đồng ngập lối
Mà như cùng muôn triệu công nông
Xông vào Cung điện Mùa Đông
(Lều cỏ Lênin, 1970)
Bên cạnh đó, nhà thơ Tố Hữu cảm nhận ra rằng Lênin sống mãi trong sự nghiệp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới:
Tôi đã đi
Giữa mùa hè chín mẩy
Xibêri hay Tbilixi
Đâu đâu tôi cũng thấy Lênin
Mỗi công trường xưởng máy
Lênin, ấy là lò thép chảy
Thành những óc tim, lửa cháy bừng bừng
Trên thảo nguyên, đồng nội, núi rừng
Lênin, ấy là nguồn điện lực
Với Xô viết, làm thiên đường sáng rực!
Khắp những nẻo đường náo nức tôi đi
Hiển hiện Lênin phơi phới diệu kỳ
(Với Lênin, 1958).
Hay như nhà thơ Chế Lan Viên thì đúc kết về cuộc cách mạng vĩ đại nhất lịch sử nhân loại như một bước nhảy vọt của lịch sử:
Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
Sao vàng bay theo liềm búa công nông
(Người đi tìm hình của nước, 1960).
Viết về Lênin, nhà thơ Chế Lan Viên đã miêu tả sinh động về vai trò của Luận cương của Người đối với cách mạng Việt Nam:
Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin
(Người đi tìm hình của nước, 1960)
Ca ngợi những đóng góp
Viết về những ngày cuộc chiến chống lại phe phát xít của Liên Xô, nhà thơ Tố Hữu đã ca ngợi:
Diệu kỳ thay! Hai trăm ngày Xtalingrát
Nở muôn năm một thế giới hồng
Và
Pháo đài đây, ngôi nhà Pavlốp
Năm mươi tám ngày bão sắt, chẳng rung.
Anh lính trẻ vào Bá Linh cùng tướng quân Chucốp
Chẳng biết đâu mình cũng anh hùng!
(Xtalingrát, một ngày xuân, 1970).
Chủ tịch Hồ Chí Minh với thiếu nhi Liên Xô tại Trại hè Quốc tế Artek bên bờ biển Đen, ngày 23/8/1957. (Ảnh tư liệu)Bên cạnh đó, Liên Xô còn là thành trì hòa bình của thế giới, là ngọn cờ cổ vũ cho phong trào công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết về tinh thần quốc tế của Liên Xô với tình đồng chí thân thiết:
Những đồng chí Liên Xô
Xưởng thợ hay đồng nho...
Các anh vừa ra khỏi máu
Vẫn bừng bừng chiến đấu
Cho Triều Tiên Việt Nam
Đổ mồ hôi trên máy, tăng giờ làm
Tiếp sức sống cho những miền khói lửa...
Mắt các anh là vì sao đỏ...
Trong đêm chúng tôi, chói dọi huy hoàng...
(Những đồng chí chúng ta, 1952).
Lúc còn sống, Lênin luôn quan tâm đến việc “điện khí hóa” nước Nga rộng lớn 1/6 địa cầu. Trong đó, xây dựng các nhà máy thủy điện để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho nhân dân lao động là ước mơ từ lâu của Lênin. Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất vui mừng và làm thơ ca ngợi về thủy điện của Liên Xô:
Kênh đào Vônga - Đông,
Hôm nay mừng thành công,
Mấy xưởng điện khổng lồ
Tung điện ra khắp vùng
Kênh hơn bảy trăm dặm
Rất tiện cho giao thông,
Hăm tám triệu mẫu cát
Thành ruộng cho nhà nông
(Mừng kênh Vônga Đông hoàn thành, 1952).
Đối với Nhà máy Thủy điện Hòa Bình ở nước ta, 750 chuyên gia Liên Xô đã sát cánh với 30.000 cán bộ công nhân, 5.000 chiến sĩ, 1.000 cán bộ ban quản lý công trình. Nói về sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, nhà thơ Quang Huy đã sáng tác nên bài thơ Tiếng đàn Balalaica trên sông Đà. Bài thơ viết năm 1979, là thời điểm khởi công Nhà máy, có đoạn:
Lúc ấy
Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông
Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ
Những xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ
Chỉ còn tiếng đàn ngân nga
Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà.
Ngày mai
Chiếc đập lớn nối liền hai khối núi
Biển sẽ nằm bỡ ngỡ giữa cao nguyên
Sông Đà gửi ánh sáng đi muôn ngả
Từ công trình thuỷ điện lớn đầu tiên
Khi ấy những người bạn Nga sẽ ở đâu
Hàn cực Véckhôian
Hay đỉnh cao Iéccút?
Ở những vùng nào trên Liên bang Xô viết
Lại mở những công trình thủy điện vẻ vang.
Hơn 60 năm trước, vào tối ngày 4/10/1957, cả thế giới đã phải ngước nhìn khi Liên Xô phóng Sputnik, vệ tinh nhân tạo đầu tiên trong lịch sử, một thành công vang dội mở đầu cho kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết về thành tựu khoa học vũ trụ đáng tự hào của Liên Xô như sau:
Nay tên lửa đưa lên trời vòi vọi:
Một hành tinh mang quốc hiệu Liên Xô
Reo, vui, bay, cả trời đất hoan hô
Người đã đẻ một đứa con vĩnh viễn!
Xiềng của đất buộc muôn đời chẳng chuyển,
Một chiếc lông bay - cũng phải rơi về.
Nay nhổ neo rồi! Rời trái đất ta đi!
Giữa vũ trụ cắm cờ đầu cộng sản!
(Đẻ một hành tinh, 1959).
Cũng trong bài thơ này, tác giả tin tưởng càng về sau, Liên Xô càng đạt được nhiều thành tựu hơn và đặc biệt tác giả nhận định trong tương lai cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ thành công trên phạm vi toàn thế giới:
Đây là hạt đầu tiên Ta gieo vào vũ trụ;
Như nguyên tử lần đầu khi tách nổ,
Một mầm đầu đến nở giữa đồng sao,
Sẽ kéo theo muôn Bắc đẩu, Nam tào,
Sẽ chuyển rúng cả bầu cao, khoảng biếc...
Và trước nhất: một Hành tinh Xô viết!.