Thứ Ba, ngày 9 tháng 12 năm 2025

Những bài học còn nguyên giá trị của Tuyên ngôn Độc lập

Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2/9/1945. (Ảnh tư liệu)

(Stxdd.thanhuytphcm.vn) - Cùng với Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo, Tuyên ngôn Độc lập về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 được xem là áng “thiên cổ hùng văn”. Những giá trị của Tuyên ngôn Độc lập đã vượt không gian, vượt thời gian và sẽ trường tồn.

Hồ Chí Minh là một người “Tây học”, đã xác định hành trình cứu nước về phương Tây, lăn lộn ở trời Tây, nhất là nước Pháp. Nước Pháp, nơi sinh ra các mỹ từ nổi tiếng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” và cũng là quê hương của nhiều triết gia khai sáng. Hẳn nhiên những yếu tố khách quan ấy có những ảnh hưởng đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi vậy, không lạ lẫm và bất ngờ khi mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Người đã dẫn Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Và, “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi người, đó là quyền “thiên định” khi con người được sinh ra trên trái đất này và đó là những giá trị chung phổ quát của nhân loại. Dẫn 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng từ những nước được xem là có nền dân chủ sớm của thế giới, Hồ Chí Minh muốn khẳng định và nhắn nhủ với tất cả chúng ta rằng: Con đường mà dân tộc chúng ta đi phải là con đường của những giá trị phổ quát mà nhân loại đã và đang hướng tới.

Trong Tuyên ngôn Độc lập, giá trị nhân văn, nhân nghĩa, bao dung của dân tộc Việt Nam nổi lên thật sáng đẹp. Mùa thu năm 1945, nhân dân Việt Nam đã giành lại độc lập từ tay phát xít Nhật chứ không phải từ tay thực dân Pháp. Từ đêm 9/3/1945, thực dân Pháp đã đầu hàng phát xít Nhật và sau đó quay trở lại bóc lột dân ta. Hai kẻ chính phạm và tòng phạm này đã gây ra nạn đói dẫn tới cái chết oan khốc của 2 triệu đồng bào Việt Nam khi ấy. Trước khi thua chạy, thực dân Pháp còn đang tâm giết hại số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng. Thế nhưng, bằng tấm lòng nhân nghĩa, bao dung, nhân dân Việt Nam đã giữ “một thái độ khoan hồng và nhân đạo”, thể hiện rõ trong Tuyên ngôn: “Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”. Đó chính là truyền thống nhân nghĩa, bao dung ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Nhìn lại lịch sử dân tộc Việt Nam, mỗi khi đánh thắng quân xâm lược, triều đình xưa không giết hại mà còn cấp lương thảo, thuyền bè, xe ngựa để tống tiễn đội quân thất trận về nước.

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Với sự hy sinh của nhiều thế hệ người Việt Nam kể từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta vào cửa biển Đà Nẵng ngày 31/8/1858, cái giá của độc lập, tự do phải trả vô cùng lớn. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Và, một ngày mà “đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Tiếp nối quan điểm phải hết lòng hết sức chăm lo cho nhân dân đó, phát biểu tại Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác dân vận, ngày 27/5/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Trong điều kiện ngày nay, nếu không chăm lo một cách cụ thể, thiết thực đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân thì dù có nói bao nhiêu về quan điểm quần chúng, về quyền làm chủ của nhân dân cũng đều là vô nghĩa và không có sức thuyết phục”.

Tuyên ngôn Độc lập sẽ mãi soi đường cho cách mạng Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập sẽ mãi soi đường cho cách mạng Việt Nam.

“Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Lênin từng khẳng định: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó khăn phức tạp hơn nhiều”. Lịch sử đã đủ dài và đủ dữ liệu để chứng minh luận điểm này của Lênin, nhất là đối với hoàn cảnh Việt Nam. Ngày 2/9/1945 đánh dấu khởi đầu độc lập của Việt Nam, song phải mất đúng 30 năm sau, năm 1975, nền độc lập của đất nước mới được trọn vẹn. Trong 30 năm ấy đã có biết bao những mất mát, hy sinh. Thế nhưng chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã khích lệ và thúc giục mỗi người Việt Nam yêu nước không quản hy sinh đứng lên vì khát vọng độc lập, vì mục tiêu quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong bối cảnh hiện nay, khi chủ quyền quốc gia có lúc bị uy hiếp thì lời tuyên bố đanh thép kết thúc Tuyên ngôn Độc lập sẽ ngự trị trong trái tim và khối óc của mỗi người Việt Nam yêu nước để giữ ấm trái tim, dòng máu yêu nước của mỗi người và để thôi thúc chúng ta đứng lên khi Tổ quốc lâm nguy.

Những giá trị vượt thời gian và không gian của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đang nhắc nhở chúng ta về những điều thiêng liêng, hệ trọng ấy và phải biến thành hành động cụ thể một cách thường xuyên, kiên trì và nhất quán!

Vũ Trung Kiên

Học viện Chính trị Khu vực II


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo