Trước mũi súng quân thù, lấy thân mình che chở các con
Đi bất cứ nơi đâu, đến bất cứ nơi nào, từ Bắc vào Nam, ta đều có thể bắt gặp những bà mẹ anh hùng theo sát cùng các con chiến đấu, sẵn sàng hy sinh bảo vệ các con và bảo vệ bí mật cách mạng.
Đến thành phố Đà Nẵng, trước Tượng đài bà mẹ khom lưng, dang cánh tay, lấy thân mình che chở cho những người con trước mũi súng quân thù, hầu như ai cũng lặng người. Đó là mẹ Nhu, tần tảo nuôi con lên đến đại học, đưa con đến với cách mạng. Mẹ đào hầm cho các biệt động thành trú ẩn, chắt chiu từng con cá, con tôm, đổi lương thực nuôi các chiến sĩ dưới hầm và còn đi điều tra, thu thập tin tức, làm giao liên cho biệt động... Mẹ bị chỉ điểm, địch kéo đến vây ráp nhà trói chặt mẹ và đánh đập rất tàn nhẫn, nhưng mẹ kiên quyết không chỉ hầm bí mật. Từ dưới hầm, các chiến sĩ biệt động nghe rất rõ lời cuối cùng của mẹ: “Hầm ở trong tim tao”.
Nếu như ở Quảng Nam có mẹ VNAH Nguyễn Thị Thứ là mẹ của 9 con ruột, 1 con rể và một cháu ngoại là liệt sĩ thì ở Củ Chi, mẹ Nguyễn Thị Rành vừa là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vừa là mẹ VNAH có 8 người con trai, hai cháu anh dũng hy sinh. Nhà mẹ từng là cơ sở nuôi giấu cán bộ, mẹ từng xung phong đào địa đạo, sát vai cùng con, cháu đánh giặc. Mẹ rất ngoan cường khi bị địch bắt làm con tin để ép con, cháu của mẹ ra hàng và ly khai cách mạng. Tấm thân gầy yếu của mẹ bao lần hứng lấy những trận đòn dã man nhưng trước sau như một, mẹ vẫn một lòng trung kiên với cách mạng.
Mẹ Đoàn Thị Nghiệp là một tấm gương chiến đấu rất dũng cảm, gan dạ. Mẹ là một tỉnh đội phó với những thành tích lẫy lừng trong chiến đấu, một anh hùng quân đội, một người chỉ huy luôn đi đầu trước những cuộc tấn công. Trong một trận chiến đấu ở bót Cẩm Sơn, 4 chiến sĩ của ta hy sinh. Dưới tầm lửa đạn, nữ chỉ huy Đoàn Thị Nghiệp đã kiên trì cắt một tiểu đội men theo dòng kinh, nhẹ nhàng trượt xuống hố chôn người, lặn xuống hố đội lên từng xác chết rồi bò theo dòng kênh đến một chiếc xuồng nghi trang, đưa được xác 4 đồng đội về nơi an toàn.
Ở xã anh hùng Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, Tây Ninh có mẹ Ba kiên trì đào hầm nuôi du kích xã. Khi địch đem mìn đến gần cửa hầm để giật, bất chấp hiểm nguy, mẹ kêu lên: “Các con xông lên diệt giặc”. Hai chiến sĩ bung lên ném lựu đạn làm 2 tên giặc bị chết, các anh thoát được ra ngoài nhưng mẹ đã anh dũng hy sinh. Địch liền đốt nhà khiến chị Lê Thị Trừ con gái của mẹ cùng hai du kích hy sinh trong hầm. Tinh thần chiến đấu, dũng cảm hy sinh của mẹ Ba và chị Trừ để lại niềm thương tiếc vô hạn trong lòng dân quân Gia Lộc.
Có ai biết trước được một bà mẹ quê chỉ với tình yêu thương đã thốt ra một câu nói như chân lý và để đời: “Chồng con tao là ở trong tim tao đây, chúng bay cứ mổ ra mà kiếm”. Đó là mẹ Trần Thị Kế, ở cồn Ốc, xã Thạnh Phong, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Mẹ Kế là con gái út một gia đình khá giả, chồng là cán bộ kháng chiến thời chống Pháp, bản thân mẹ là đảng viên. Sau hiệp định Genève, chính quyền Diệm tập trung đánh phá phong trào cách mạng ở Bến Tre rất khốc liệt. Ngày 17/4/1969, bọn công an đến cồn Ốc bao vây nhà mẹ Kế, lùng sục khắp nơi vẫn không tìm ra hầm bí mật, bèn đánh đập, bắt mẹ phải chỉ hầm.
Trước trận mưa đòn xối xả với thân hình gầy yếu, mẹ Kế lấy hết sức, gượng ngồi dậy, đưa tay chỉ vào ngực mình nói lên lời gan ruột ấy. Địch chở mẹ về Ty Công an tỉnh Bến Tre, tiếp tục khai thác nhưng mọi thủ đoạn tinh vi và xảo quyệt; mọi phương tiện, dụng cụ tra tấn tối tân của địch đều thất bại trước người mẹ kiên trung. Đến ngày thứ 3 sau khi bị tra tấn dã man mẹ Kế trút hơi thở cuối cùng...
Không có lựa chọn nào hơn Độc lập Tự do cho dân tộc
Cuộc chiến tranh tàn khốc đã đẩy biết bao bà mẹ vào tình huống nghiệt ngã, đau lòng. Có những bà mẹ ngàn lần anh hùng khi đứng trước sự lựa chọn, hoặc là sinh mệnh của con, hoặc là sự an toàn cho cả đoàn quân.
Đất Nam bộ thành đồng có nhiều bà mẹ anh hùng như Nguyễn Thị Điểm (Thanh Tùng) ở TPHCM, Nguyễn Thị Ba, Cao Thị Mai ở Long An; Huỳnh Thị Tân ở Sóc Trăng; Trần Quang Mẫn ở Rạch Giá; Phạm Thị Ngư ở Bình Thuận; Đỗ Thị Phúc (mẹ Gấm) ở Kiên Giang; Bùi Thị Thêm ở Gò Quao (Kiên Giang),…
Có nơi nào trên thế giới trong một gia đình có 3 thế hệ nối tiếp nhau là những mẹ Anh hùng? Đó là gia đình mẹ Nguyễn Thị Toàn ở Đức Hòa, Long An. Mẹ Toàn đã sinh ra hai thanh niên đều trở thành Ủy viên Trung ương Đảng: Võ Văn Tần, Võ Văn Ngân, mẹ có 9 người con, trong đó 4 người là liệt sĩ. Bà Lê Thị Mẹo, dâu mẹ Toàn, vợ liệt sĩ Võ Văn Tây sinh ra con gái Võ Thị Thung. Chị Thung tham gia kháng chiến chống Pháp và đã nhảy xuống giếng bảo toàn khí tiết, để lại người con trai duy nhất là Phạm Công Khanh. Nối tiếp chí mẹ, Công Khanh tham gia đánh Mỹ, rồi cũng hy sinh.
Mẹ Vũ Thị Xuân ở Yên Bái có đứa con trai độc nhất vĩnh viễn nằm lại ở chiến trường miền Nam. Anh hy sinh đã hơn 30 năm mà chiều chiều mẹ vẫn tựa cửa hát: “Bao giờ yên nước cho con tôi về”. Hay như Mẹ Thịnh ở Hà Nội, ngay trong ngày tiễn đứa con cuối cùng vào Nam chiến đấu, trái tim mẹ đã run lên dự cảm rằng con sẽ không trở về, nhưng mẹ không thể ngăn con ra đi vì một lẽ giản dị: “Nếu ai cũng sợ con chết thì làm sao giải phóng được đất nước”.
Đừng ngạc nhiên khi trong những cuộc họp mặt phụ nữ miền Nam, có những mẹ VNAH là người Hoa, người Chăm, Khmer... về dự. Mẹ Trương Thuận Huê ở TPHCM có 3 con là liệt sĩ. Mẹ Kalin, dân tộc Châu Mạ ở xã Đinh Trang Thượng (huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng) có 3 con trai lần lượt nằm xuống trên mảnh đất Tây Nguyên.
Đặc biệt, mẹ Mưk lúc đó đã 106 tuổi, người Ba Na đến từ tỉnh Gia-Lai có một con độc nhất hy sinh, ước nguyện của mẹ thật giản dị làm bao người rơi nước mắt trong lần đầu mẹ rời khỏi buôn làng để đến Dinh Độc Lập (TPHCM), đó là được nghe tiếng cười nói của bà con buôn làng. Ngay khi đó, Anh hùng Lao động Nguyễn Vĩnh Nghiệp đã hứa tặng máy trợ thính cho mẹ Mưk…
Tôi không thể nào quên tấm lưng còng của mẹ Nguyễn Thị Lớn, mà người dân địa phương quen gọi là “mạ Lớn” khuất dần sau lũy tre làng Thụy Phương, huyện Hương Thủy, ngoại thành Huế. Mẹ đã từng chở nỗi đau quá lớn. Chồng hy sinh, mẹ giả điên làm quân báo, từng dám nuốt cả phân chó cho giặc tin mình điên thật.
Trong nghĩa địa dưới tầm kiểm soát của quân thù, mẹ đã từng đăm đăm nhìn vào nấm mồ con trai mẹ, không dám khóc, chỉ lặng lẽ nuốt nước mắt vào lòng rồi cắm đầu bước đi mải miết. Khi nghe tiếng gọi “mạ ơi” của một đứa trẻ đâu đấy, mẹ không còn nén được nỗi đau, mửa ra bụm máu cùng với tiếng thốt gọi “Con ơi!”. Rồi mẹ nuốt nỗi đau, tiếp tục giả điên lang thang cùng cát bụi…
Có những phụ nữ vừa là mẹ Việt Nam Anh hùng vừa là Liệt sĩ, như mẹ Phan Thị Thạnh (Chín Liềm), hy sinh trong tư thế che chở đàn con, cháu trong trận bị địch thảm sát 41 gia đình ở Tân Hòa, Tân Thạnh, Kiến Tường (nay là tỉnh Long An). Ngày nay, nơi diễn ra trận thảm sát năm xưa được gọi là đồng 41. Riêng gia đình mẹ Liềm có 11 người bị giết, chỉ còn sống sót người con gái Du Thị Đông khi đó mới lên 9 tuổi...
Có trái tim nào đau như trái tim mẹ Bùi Thị Tư? Chỉ trong khoảng 10 năm cuối của cuộc chiến tranh ác liệt (từ 1965-1975), mẹ đã tự tay khâm liệm và chôn cất hơn 100 tử sĩ. Nhà mẹ ở Phước Định, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Trên bản đồ quân sự của Mỹ, đây là vùng “oanh kích tự do”, hứng pháo địch bất cứ lúc nào. Nhà mẹ là cái lán lợp lá, nửa nổi nửa chìm trên một con mương để tránh bom pháo địch. Mẹ nhất quyết ở lại để làm nơi che chở, tiếp tế cho bộ đội, du kích, thương binh. Tấm lòng của mẹ đối với người sống tràn ngập yêu thương và với người đã khuất cũng thật vô cùng cảm động. Mẹ thường bảo người chết, khi chôn cất phải được sạch sẽ, thì sang bên kia linh hồn mới được thanh thoát. Đặc biệt, với những xác đã chết nhiều ngày, người ta thường ngại, tìm cách tránh né, riêng mẹ Tư vẫn thản nhiên góp phần lo tẩm liệm, chôn cất chu đáo. Có người bảo: “Mẹ quen mùi nên mới dạn tay như vậy”. Mẹ cười, nhẹ nhàng trách: “Tầm bậy, ai mà quen với mùi của xác chết. Có điều mình coi mấy đứa bộ đội như con ruột của mình. Nó làm xong nghĩa vụ với nước non, mình phải xử sự cho đúng cái nghĩa ở đời chớ!”. Chồng và ba người con trai của mẹ hy sinh. Mẹ tin rằng ở một nơi nào đó, người thân của mình cũng được chăm lo tử tế như những anh bộ đội đã được mẹ nhẹ nhàng tiễn về lòng Đất Mẹ. Việt Nam có những Bà Mẹ Anh hùng đã sinh ra những người con gái, con trai Anh hùng. Chất Anh hùng của các Mẹ vẫn còn tiềm ẩn trong những cuộc đời thầm lặng sau chiến tranh...
Dù nơi phố thị phồn hoa hay xóm làng xa xôi, heo hút; dù chỉ một con duy nhất hay nhiều người con hy sinh, trong lòng các Mẹ luôn có tình yêu vô bờ dành cho các con sâu thẳm và trĩu nặng. Thế hệ hôm nay và mai sau mãi mãi luôn nhớ về công ơn của các Mẹ.