Quản lý, sử dụng vốn vay còn bất cập
Trình bày Tờ trình dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho hay, qua 7 năm triển khai thực hiện Luật Quản lý nợ công, cơ cấu nợ đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỉ trọng vay nợ trong nước, bảo đảm an toàn tài chính quốc gia; chủ động trả nợ đầy đủ, đúng hạn các nghĩa vụ trả nợ theo cam kết…
Tuy nhiên, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng thừa nhận công tác quản lý nợ công đã bộc lộ một số bất cập, trong đó đáng lưu ý là nợ công tăng nhanh. Chỉ tính riêng quy mô dư nợ nước ngoài của Chính phủ (trong đó vay ODA, vay ưu đãi chiếm trên 94%) đến cuối năm 2015 so với cuối năm 2001 đã tăng 6,5 lần. Bên cạnh đó, áp lực trả nợ trong ngắn hạn lớn, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ. Việc quản lý, sử dụng vốn vay còn bất cập; phân bổ vốn đầu tư từ nguồn vốn vay nợ công còn dàn trải và hiệu quả đầu tư chưa cao. Đã phát sinh những rủi ro từ các dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ và vốn vay Chính phủ bảo lãnh dẫn đến Chính phủ phải trả nợ thay.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội tán thành về sự cần thiết sửa đổi Luật nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, đặc biệt việc sửa đổi phải góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, bảo đảm an toàn, đáp ứng yêu cầu quản lý nợ công trong tình hình mới. Tuy nhiên, với tính chất là đạo luật điều chỉnh nội dung phức tạp, liên quan trực tiếp đến an ninh tài chính quốc gia, Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhận thấy cần bổ sung quy định nhằm phân định rõ hơn việc phân cấp thẩm quyền gắn với trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước; quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan quản lý, đối tượng, điều kiện cấp bảo lãnh, kiểm soát rủi ro đối với bảo lãnh Chính phủ, về vốn vay nước ngoài cho vay lại.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi)Theo ông Nguyễn Đức Hải, đa số ý kiến thống nhất nội dung không tính vào nợ công các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành để thực hiện chính sách tiền tệ, nợ tự vay, tự trả của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), của đơn vị sự nghiệp công lập. Việc DNNN và đơn vị sự nghiệp công lập tự vay, tự trả thuộc quyền tự chủ của doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp. Trong trường hợp DNNN không đủ khả năng trả nợ thì thực hiện thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật tương tự như các loại hình doanh nghiệp khác. Nếu quy định nợ của DNNN, đơn vị sự nghiệp thuộc phạm vi nợ công sẽ dẫn đến gia tăng nghĩa vụ trả nợ công rất lớn, ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia.
Khắc phục các bất cập do "lợi ích nhóm''
Cho ý kiến góp ý Luật quản lý ngoại thương, các đại biểu cho rằng để bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, khắc phục các bất cập do "lợi ích nhóm'' và hạn chế cơ chế "xin - cho'', những nội dung nào có thể quy định được ngay cần thể hiện cụ thể trong Luật, tránh chung chung. Đại biểu Phạm Văn Tuân (Thái Bình) đề nghị đối với hoạt động cấp giấy phép, dự án Luật cần quy định rõ các tiêu chí, danh mục, số lượng hàng hóa được cấp giấy phép theo hướng công khai, minh bạch, phù hợp với việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Thẩm quyền của Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương cũng cần quy định rõ để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương theo Luật tổ chức chính quyền địa phương, đặc biệt là trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Công thương trong việc cải cách thủ tục hành chính, áp dụng khoa học công nghệ, quản lý, điều hành, cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng hóa...
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh, về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, dự thảo Luật không quy định cụ thể các loại giấy phép, mà chỉ quy định nguyên tắc áp dụng tại Điều 31 của dự thảo Luật, bảo đảm công khai, minh bạch, tiết kiệm thời gian, chi phí của cơ quan quản lý nhà nước, của thương nhân. Trên cơ sở các nguyên tắc đó, giao Chính phủ quy định chi tiết danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu, quy định phương thức, phạm vi quản lý của các bộ, cơ quan ngang bộ đối với hàng hóa thuộc danh mục, trong đó có quy định giấy phép gắn với hàng hóa cụ thể và giao các bộ, cơ quan ngang bộ công bố công khai (Điều 32).
Liên quan đến Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, nhiều ý kiến tán thành với quan điểm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là Luật chỉ quy định nguyên tắc, tiêu chí xác định hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, bảo đảm phù hợp với các cam kết quốc tế. Trên cơ sở các tiêu chí, nguyên tắc được quy định, giao Chính phủ quy định chi tiết danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia trên các lĩnh vực như quốc phòng, an ninh, sức khỏe, môi trường, thuần phong mỹ tục, an ninh lương thực, cổ vật…
Trên cơ sở phân tích danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành (dưới dạng thông tư) nhưng danh mục cấm và tạm ngừng xuất khẩu, nhập khẩu cũng như các thuế suất biên nhập khẩu lại là Chính phủ quy định, đại biểu Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) cho rằng cần đảm bảo tính tích hợp giữa các danh mục hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu, hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu theo quản lý chuyên ngành để thống nhất mã số và công khai, minh bạch, giúp doanh nghiệp dễ dàng tra cứu.