Do vậy, trong bốn nhóm nhiệm vụ, giải pháp để đưa Nghị quyết vào cuộc sống đạt hiệu quả cao, thì nhóm nhiệm vụ giải pháp đầu tiên là về chính trị tư tưởng, trong đó cần nâng cao nhận thức về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Vì sao vậy?
Lịch sử 87 năm qua của dân tộc ta đã chứng minh rõ ràng “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Muốn lãnh đạo đúng phải có “chủ nghĩa làm cốt”. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, trang 289). Trong thời kỳ bôn ba khắp năm châu tìm đường cứu nước Bác Hồ đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, trang 289). Do vậy, từ khi mới thành lập trong Luận cương chính trị năm 1930 Đảng ta đã xác định “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc” (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, trang 100). Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, rồi đến Đại hội XI (2011) bổ sung, phát triển cương lĩnh 2011, sau đó là Hiến pháp 2013 và nhiều văn kiện của Đảng đều tiếp tục khẳng định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trang 88). Chủ nghĩa Mác – Lênin là một hệ thống quan điểm lý luận và phương pháp luận khoa học được kết tinh và là đỉnh cao của thành tựu trí tuệ, tinh hoa văn hóa của nhân loại, có giá trị bền vững, mang bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại…” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, trang 83-84). Nhờ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, làm gốc, nên Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên những kỳ tích lịch sử, trong đó nổi bật nhất là tiến hành cách mạng Tháng Tám vĩ đại, hai cuộc kháng chiến trường kỳ thắng lợi, thực hiện sự nghiệp đổi mới thành công, làm thay đổi căn bản thân phận, vai trò, vị thế của dân tộc ta, đất nước ta, nhân dân ta. Đó là sự thật lịch sử khách quan, là minh chứng thuyết phục nhất, học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đóng vai trò lý luận cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, lịch sử cũng đã chứng minh, khi nào, ở đâu mơ hồ, dao động, xa rời hay vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách giáo điều, không sáng tạo, sai qui luật khách quan… thì dẫn đến lúng túng, rồi sai lầm. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu không phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác – Lênin, từ cách mạng Tháng Mười vĩ đại mà là từ sai lầm về đường lối và sự phản bội của giới lãnh đạo. Những sai lầm của nước ta trong thời kỳ quan liêu bao cấp được Đại hội VI của Đảng ta tổng kết là do giáo điều, tả khuynh, duy ý chí, vi phạm qui luật khách quan, tính biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng.
Nhờ đổi mới, thực hiện đúng đắn và sáng tạo học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức đúng đắn về các qui luật phát triển, bám sát thực tiễn, nâng cao tư duy lý luận, dựa vào dân, đặt lợi ích của dân, của Tổ quốc, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996), thoát khỏi tình trạng kém phát triển (2010) để từ đó đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do vậy củng cố, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là điều tiên quyết để Đảng ta mãi là một Đảng cách mạng, chân chính, khoa học, Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam.
Làm gì để kiên định, củng cố nền tảng của Đảng, tăng cường niềm tin của nhân dân vào nền tảng của Đảng?
Trong Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII), trong nhóm nhiệm vụ, giải pháp về công tác chính trị tư tưởng đã nêu lên 10 nội dung quan trọng. Xin nêu một vài vấn đề để làm sáng tỏ thêm:
- Trước hết, phải nâng cao nhận thức, đổi mới căn bản của việc giáo dục, nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cho đến hiện nay, công tác giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã có sự đổi mới trên cơ sở kết quả mới của việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, nhưng nói chung chưa đáp ứng yêu cầu. Giáo trình cũng như phương pháp đào tạo, đều chưa thật hấp dẫn bởi chưa thoát khỏi giáo điều, “tầm chương”, “trích cú”. Học chính trị chủ yếu là để đáp ứng tiêu chuẩn qui hoạch. Nhưng rồi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo quản lý; tham nhũng, lãng phí tiêu cực ngày càng trầm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình trạng mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ diễn ra ở nhiều cấp, nhiều nơi. Chắc chắn số đông trong đó đều đã trải qua đào tạo chính trị theo các cấp học khác nhau. Như vậy là học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin chưa thực chất, chưa đạt yêu cầu. Phải xác định mục đích, tầm quan trọng, ý nghĩa của học tập chủ nghĩa Mác – Lênin và phải vận dụng sáng tạo và luôn được phát triển.
Khi tiếp xúc với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu tất cả, song điều Người quan tâm nhất, ảnh hưởng đến việc hình thành con đường cứu dân cứu nước, hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn mácxít và phương pháp biện chứng. Người coi đó là bản chất khoa học và cách mạng nhất của học thuyết Mác. Người đã tiếp nhận hai yếu tố này một cách trung thành, triệt để và trọn vẹn. Không phải tiếp thu từng câu chữ, từng mệnh đề mà nắm chắc cốt lõi và được tỏa sáng trên từng hành vi, lời nói, việc làm. Và Người dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa”. Phép biện chứng được thể hiện rõ nhất là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Độc lập dân tộc, hạnh phúc nhân dân, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là bất biến. Song, trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin là phải nắm vững cốt lõi, vận dụng phù hợp với thực tiễn, luôn sáng tạo và phát triển.
Ngày nay, khi được coi là “thế giới phẳng”, được rêu rao nhân quyền hơn chủ quyền, thì “chủ nghĩa dân tộc” theo Hồ Chí Minh vừa là chủ nghĩa yêu nước chân chính, chủ nghĩa nhân văn cao cả, vừa là ngọn cờ tập hợp lực lượng cách mạng vẫn mang tính thời đại, có ý nghĩa định hướng cho sự độc lập tự chủ, bảo đảm chủ quyền quốc gia, lợi ích của nhân dân trong sự phát triển chung của nhân loại theo bối cảnh “toàn cầu hóa” là “các nước với chế độ xã hội khác nhau và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia dân tộc” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). NXB Chính trị quốc gia, 2011, trang 13).
 |
Bí thư Thành ủy TPHCM Đinh La Thăng trao đổi với các đại biểu tại hội nghị. Ảnh: S. Hải |
Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lênin theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp Hồ Chí Minh sẽ nắm được tinh thần cơ bản, nội dung cốt lõi của nền tảng tư tưởng của Đảng ta, nắm được vũ khí tư tưởng sắc bén, sẽ trang bị vốn tư duy lý luận, tri thức cơ bản để thấm thấu giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; lý giải một cách khoa học, có cơ sở thực tiễn những hiện tượng xảy ra trong thời kỳ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội; không lúng túng, dao động, mất niềm tin, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cho nên phải cương quyết từ bỏ phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo lối truyền tải thụ động, áp đặt, nhồi nhét, khắc phục tình trạng lười học tập lý luận chính trị hoặc học không đến nơi đến chốn mà vẫn “đạt chuẩn”, tự hạ thấp trình độ lý luận và sứ mệnh tiên phong về trí tuệ của Đảng, tạo ra nhiều “học giả mà bằng thật”, gây nhiều hậu quả xấu cho Đảng, cho xã hội.
- Thường xuyên đấu tranh vạch trần những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp thì đã xuất hiện cơ hội chính trị. Khi chủ nghĩa Mác ra đời, được truyền bá rộng rãi thì chủ nghĩa cơ hội xuất hiện, có cả hệ thống lý luận và tổ chức.
Ở nước ta, nhất là từ ngày Đổi mới đến nay, do tác động của các yếu tố chủ quan và khách quan, các phần tử cơ hội ngày càng nhiều hơn, dùng các phương tiện thông tin hiện đại tán phát các tài liệu, gây hoài nghi trong dư luận, gây mâu thuẫn nội bộ. Khi tình hình đất nước có nhiều khó khăn, với mặt trái của cơ chế thị trường cùng những yếu kém, hạn chế trong quán lý, điều hành, sự suy thoái về đạo đức, lối sống; quan liêu tham nhũng, môi trường văn hóa xã hội xuống cấp… thì các phần tử cơ hội, thù địch hoạt động ngày càng ráo riết. Sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, thì các thế lực thù địch trong và ngoài nước a dua, cố kết với nhau cho là thời cơ đã đến xóa bỏ toàn bộ các nước xã hội chủ nghĩa, tấn công vào học thuyết Mác – Lênin, phê phán, bôi đen chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hệ thống quan điểm của họ quanh quẩn mấy điểm: Phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin; phủ định sự lãnh đạo của Đảng, đi đến phủ định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta để đạt mục đích cuối cùng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta.
Cuộc đấu tranh chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình”, các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội cần được coi là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của công tác tư tưởng, phải vạch trần các quan điểm sai trái, mị dân, phi khoa học, phi lịch sử của họ, cũng là để giúp cho những người học chủ nghĩa Mác – Lênin theo kiểu học vẹt, thuộc và nhớ nhiều câu chữ, tư duy giáo điều, đầu óc ít sáng tạo, khiếm khuyết về tri thức, gặp những vấn đề thực tiễn sinh động hiện nay khó lý giải được, nên lúng túng, hoang mang, dẫn đến cực đoan, sai lệch, nếu thành tâm thì có điều kiện thức tỉnh; đồng thời làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta hiểu được giá trị trường tồn và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa, Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong công tác đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, ngăn ngừa sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, một nội dung quan trọng là phải phê phán quan điểm sai trái, luận điệu phản khoa học, phi thực tế cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam. Họ đã dùng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, vừa mơ hồ, vừa bịa đặt, thực chất nằm chung một rọ với những kẻ cơ hội, thù địch chống lại chủ nghĩa Mác – Lênin. Cần phải phân tích khoa học cuộc hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, phải quán triệt, thẩm thấu quan điểm của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đảng ta phải tự chỉnh đốn theo đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ 12 và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đạt hiệu quả cao, góp phần quan trọng củng cố và tăng cường niềm tin lãnh đạo của Đảng ta. Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết về xây dựng Đảng, tiêu biểu như Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) – khóa VIII và hai Nghị quyết trên đây, đạt được kết quả quan trọng bước đầu, nhưng chưa đạt yêu cầu, tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không những chưa được ngăn chặn mà có mặt còn phức tạp hơn, gây mất niềm tin trong Đảng và nhân dân. Cho nên, cùng với nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó có 2 giải pháp vừa nêu trên, thiết tưởng kỳ này, toàn hệ thống chính trị, đặc biệt là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải nêu cao quyết tâm chính trị để thực hiện bằng được các nhiệm vụ giải pháp đã nêu trong Nghị quyết Trung ương 4, đặc biệt là vấn đề đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, sống ích kỷ, thực dụng, “lợi ích nhóm”, cơ hội, cục bộ, kèn cựa địa vị, sự lộng hành, mất đoàn kết nội bộ, quan liêu, xa rời quần chúng.
Nhân dân đang hy vọng ở “lời hứa” của lãnh đạo Đảng và Nhà nước là giải quyết dứt điểm những vụ án nổi cộm; đồng thời cần kiểm tra, thanh tra làm rõ những dư luận xã hội về một số vụ việc tiêu cực, kể cả những vụ việc trong các thời kỳ trước, liên quan đến nhiều lĩnh vực xây dựng Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân.
Sự kiện lịch sử diễn ra trong những thời gian nhất định, nhưng sự đánh giá sự kiện lịch sử lại có thể được tiến hành trong những thời điểm khác nhau. Chức vụ có nhiệm kỳ, nhưng tư tưởng, đạo đức không phụ thuộc vào nhiệm kỳ. Dù dư luận xã hội không phải là chân lý, có cái đúng, cái sai, nhưng dư luận xã hội rất quan trọng, có tác dụng trên nhiều mặt, vừa là công cụ điều tiết các mối quan hệ xã hội, vừa có chức năng giáo dục, đặc biệt trong lĩnh vực đạo đức xã hội và cá nhân, chức năng giám sát các hoạt động của các tổ chức, có sức ép khá lớn đối với tệ quan liêu, tham nhũng, tắc trách, đồng thời có chức năng tư vấn, cung cấp hiện tượng, các phán xét, các kiến nghị sáng suốt. Dư luận xã hội là thái độ, tình cảm, là sự phán xét cộng đồng đối với những sự kiện bức xúc mà nhiều người quan tâm. Dư luận xã hội cũng là một kênh thông tin; sử dụng kết quả nghiên cứu dư luận xã hội là thể hiện sự nghe dân, gần dân, tin dân. Lấy lại và củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, với nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ bằng lý luận, lời nói hay nghị quyết mà phải hành động thực tiễn, “nói đi đôi với làm”. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đưa lại niềm tin và hy vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, song vẫn còn tồn tại nhiều ưu tư và tâm lý chờ đợi. Hy vọng, kết quả thực hiện nghị quyết lần này là bước ngoặt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta thực sự là một chính đảng mácxít, khoa học, cách mạng và nhân văn, Đảng của dân tộc Việt Nam.
PGS.TS Phan Xuân BiênỦy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam