Tiếp quản Nha Học chánh Nam kỳ
Dưới thời Pháp thuộc, trí thức Nam kỳ, bao gồm giáo giới, học trường Pháp, làm việc cho Pháp và lãnh lương của Pháp, có người vô dân Tây, cưới vợ đầm, nhưng vẫn đau đáu trong lòng nỗi nhục của người dân mất nước, luôn hướng về cách mạng, khi có điều kiện thì sẵn sàng rời bỏ lợi danh, dấn thân vào sự nghiệp yêu nước, giải phóng dân tộc.
Tại trường Pétrus Ký, giáo sư Nguyễn Văn Chì dạy môn luân lý (morale). Trong khi giảng bài, thầy thường “nói bóng, nói gió” để khêu gợi lòng yêu nước của học sinh. Ngoài ra, thầy còn chú trọng uốn nắn tư thế ngồi của học sinh sao cho khỏi bị tật. Mỗi khi lên lớp, thầy cầm theo cây roi mây dài cả thước, không phải để đánh mà chỉ để nhịp nhịp trên lưng trò nào ngồi cong “lưng tôm”, hoặc ẹo xương sống. Đứa nào bị thầy nhịp roi trên lưng là sợ xanh mặt, từ đó về sau đều ngồi thẳng người. Thời kháng Pháp, khi gặp lại thầy trong rừng U Minh, người viết bài này ôn lại chuyện đó, thầy cười đôn hậu và cũng nhắc lại câu mà thầy thường nói với chúng tôi trong những giờ giảng bài: “Thanh niên trai tráng cần có một tâm hồn trong sáng trong một cơ thể cường tráng để phụng sự dân tộc”. Thầy nói tiếp: “Hồi đó chỉ nhịp roi để dọa thôi, chớ thầy có đánh đứa nào roi nào đâu!”.
Dù chiến tranh ác liệt nhưng hoạt động giáo dục ở các vùng giải phóng vẫn được duy trì thường xuyên, liên tục. (Ảnh tư liệu)Trong những ngày sôi sục Cách mạng tháng Tám, giáo sư Nguyễn Văn Chì, mà chúng tôi quen gọi bằng bác Sáu thương kính, cùng nhiều trí thức khác tham gia phong trào Thanh niên Tiền phong, tham gia giành chính quyền tại Sài Gòn. Đêm 24/8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tại khắp các tỉnh Nam bộ thành công tốt đẹp, toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Sáng sớm 25/8, giáo sư Nguyễn Văn Chì có sáng kiến chủ động tiếp quản Nha Học chánh Nam kỳ của thực dân Pháp.
Trong hồi ký tựa đề “Một mùa thu nhớ mãi”, bác Sáu kể: “Cách mạng tháng Tám hùng vĩ nổ ra. Tại Sài Gòn, tôi cùng mấy chục anh em giáo chức, đa số là thầy giáo tiểu học, tiến về Nha Học chánh (nay là Sở Giáo dục TPHCM). Nha Học chánh thường ngày có thằng Tây Giám đốc ngồi làm việc. Sáng đó nó trốn mất. Chúng tôi, các anh Đặng Minh Trứ, Lê Văn Chí, Trần Văn Nguyên, Võ Văn Nhung và nhiều giáo chức trung học, tiểu học, tay không bước vô Nha Học chánh, chia nhau đi hết từng trên, từng dưới, mời số công chức làm việc trong các phòng ra nói chuyện cho họ biết: kể từ hôm nay họ sẽ làm việc cùng chúng tôi. Lá cờ đỏ sao vàng được giương cao lên. Cùng ngày đó, anh em họp “bầu tôi” làm Giám đốc Nha Học chánh”.
Sau khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, giáo sư Nguyễn Văn Chì không trở lại dạy học cho Pháp, không còn lãnh lương tháng. Bác Sáu phải đi bán kim chỉ để sống qua ngày. Tuy cuộc sống gia đình hết sức khó khăn, nhưng bác tích cực hoạt động trong Liên đoàn Viên chức Sài Gòn - Chợ Lớn, một số tổ chức yêu nước bán công khai, vững tin vào cách mạng, tin tưởng Hồ Chủ tịch. Bác Sáu tâm sự: “Từ ngày chúng tôi biết Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Nguyễn Ái Quốc, anh em trí thức yên tâm, hoàn toàn tin tưởng vào tiền đồ cách mạng”.
Bác Sáu hồi tưởng việc giải quyết khó khăn gia đình bằng cách “vét hết tiền của, tư trang dành dụm được 500 đồng, tôi vô Chợ Lớn mua một bao đồ kim chỉ, nút áo… Về nhà kiếm ván, mượn đồ nghề của anh thợ mộc, tự đóng một cái bàn và một ghế xếp. Ngày hôm sau tôi ra nghề. Sáng sớm thức dậy, ăn một tô cháo lót lòng xong, tôi vác bọc đồ, tay xách bộ bàn ghế, đi bộ ra chợ Cầu Ông Lãnh. Tôi nghĩ rằng hôm nay mình mới đi bán, chưa biết lời lỗ thế nào, nên tiết kiệm, không kêu xe đi. Đi được chừng một đoạn đường, bọc đồ trên vai như ghì nặng xuống, bộ bàn ghế xách theo, hết đổi tay này qua tay kia mỏi nhừ, hai chân lảo đảo, tôi đành kêu xe, kéo tiếp ra chợ. Tôi bày hàng trên vỉa hè, dài dài theo những người cùng buôn bán như mình. Tôi bán được vài hôm, tới ngày thứ ba đem hàng ra thì mấy người buôn phía trên nhốn nháo chạy, nói là Tây đuổi, ai chạy chậm sẽ bị nó tịch thâu đồ. Tôi lật đật dẹp hàng, gởi bộ bàn ghế cho một tiệm nước, xách bọc đồ về nhà…”.
Giám đốc đầu tiên của Sở Giáo dục Nam bộ
Chỉ thị số 4/NV ngày 22/5/1947 của Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam bộ kêu gọi công chức bất hợp tác với Pháp, là cơ hội để giáo sư Nguyễn Văn Chì thực hiện hoài bão của mình là ra bưng biền trực tiếp tham gia chống giặc dốt theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông cùng giáo sư Đặng Minh Trứ rời Sài Gòn theo hướng Phú Lâm, đi đường ruộng đến chợ Đệm. Từ đó có xuồng rước đến kênh Dương Văn Dương giữa Đồng Tháp Mười, “thủ phủ” của Nam bộ kháng chiến.
Một lớp học trong vùng giải phóng thời kháng chiếnGiáo sư Nguyễn Văn Chì được bổ nhiệm làm Giám đốc đầu tiên của Sở Giáo dục Nam bộ, thành lập tháng 8/1947. Cùng lúc ấy, Viện Văn hóa kháng chiến Nam bộ cũng được thành lập, Giám đốc là giáo sư thạc sĩ triết học Hoàng Xuân Nhị, từ Pháp về thẳng bưng biền Đồng Tháp Mười theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Sở và Viện được giao chức năng nhiệm vụ chung là hoàn thành xóa mù chữ, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho kháng chiến.
Thời gian ở Đồng Tháp Mười tuy không lâu, nhưng Sở Giáo dục tranh thủ mở Trường Trung học kháng chiến mang tên Thái Văn Lung, một trí thức yêu nước, theo Công giáo, dân Tây, hy sinh trong những ngày đầu kháng chiến. Việc cấp tốc thành lập các trường trung học nội trú trong chiến khu là để thực hiện quyết định nhìn xa trông rộng của lãnh đạo Đảng bộ và chính quyền Nam bộ về việc nâng cao trình độ học vấn để “biến con em nông dân thành trí thức cách mạng”, phục vụ trường kỳ kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng, có tính đến kiến quốc sau này.
Giám đốc đầu tiên Trường Sư phạm Nam bộ
Giáo sư Nguyễn Văn Chì rất tâm huyết với việc xóa mù chữ cho hàng triệu đồng bào, phát triển hệ thống giáo dục tiểu học ngoại trú và nội trú khắp các vùng do chính quyền cách mạng quản lý ở toàn Nam bộ và cả ở cực Nam Trung bộ.
Sau khi xóa mù chữ, biết đọc biết viết, người lớn tiếp tục học các lớp “dự bị bình dân” để khỏi mù chữ trở lại. Các lớp này còn dạy cho học sinh lớn tuổi một số kiến thức phổ thông về khoa học và “đời sống mới” như bốn phép toán, vệ sinh ăn ở, chống mê tín dị đoan, bảo mật phòng gian theo khẩu hiệu “3 không” với người lạ (không biết, không nghe, không thấy). Tính chung, có hơn nửa triệu người lớn theo học các lớp dự bị bình dân.
Trẻ em được học các trường tiểu học theo chương trình và sách giáo khoa do Sở Giáo dục Nam bộ cung cấp. Đâu đâu cũng có trường tiểu học ngoại trú gồm 4 lớp. Nơi nào điều kiện an ninh cho phép, nhất là ở miền Trung và miền Tây Nam bộ, thì mở các trường tiểu học nội trú cho con em cán bộ, gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng. Theo thống kê chưa đầy đủ, có khoảng 70 trường tiểu học nội trú.
Để có giáo viên cho các trường tiểu học, lúc đầu Sở mở một số lớp sư phạm ngắn hạn từng vùng ở Rạch Rít (tỉnh Chợ Lớn) cho các tỉnh miền Đông Nam bộ, ở Trà Cú (tỉnh Trà Vinh) cho các tỉnh miền Trung và miền Tây Nam bộ, ở Tân Bằng (tỉnh Bạc Liêu) cho toàn Nam bộ.
Với đà thắng lợi của cuộc kháng chiến, các vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, các trường tiểu học ngày càng nhiều, nhu cầu giáo viên ngày càng lớn. Sở Giáo dục quyết định thành lập Trường Sư phạm Nam bộ do giáo sư Nguyễn Văn Chì trực tiếp làm Hiệu trưởng để đào tạo thường xuyên giáo viên tiểu học. Trường đóng tại Rạch Tắc, vùng Cái Tàu của huyện U Minh, tỉnh Bạc Liêu (cũ), với quy mô tương đối lớn và khá hoàn chỉnh, có lớp bổ túc văn hóa cho các giáo sinh chưa đủ trình độ học vấn, có các lớp thực hành. Trường mở hai khóa liên tục, đào tạo được 250 giáo viên tiểu học.
Giữ vững khí tiết người cách mạng
Sau Hiệp định Genève, giáo sư Nguyễn Văn Chì được phân công ở lại miền Nam tham gia đấu tranh chính trị, hoạt động trong Nghiệp đoàn Giáo dục tư thục. Năm 1960, bác Sáu bị giặc bắt và bị giam trong 7 năm tại các nhà tù khét tiếng tàn ác như bót Bà Hòa, Tổng nha Cảnh sát, Đề lao Gia Định, các khám Chí Hòa, Phú Lợi… Mặc dù bị địch tra tấn dã man, nhưng bác vẫn giữ vững khí tiết một nhà giáo cách mạng.
Thời gian này nhà thơ Viễn Phương (trước kia có thời gian công tác tại Sở Giáo dục Nam bộ) cũng bị địch bắt và bị giam cùng với các giáo sư Nguyễn Văn Chì, Lê Văn Chí, Trần Văn Hanh. Viễn Phương viết: “Không ngờ tại đây, bác cháu lại gặp nhau đầy đủ, cả ba bác. Gặp nhưng không mừng. Mừng sao được trong vòng xiềng xích. Lại phải còn làm mặt lạ nhìn ngang. Còn trong vòng tra tấn mà. Nhưng thật lòng cũng cảm thấy đỡ cô đơn. Thương các bác quá. Mỗi sáng nhìn ba bác lập cập theo bọn thầy chú sang Tổng nha để điều tra bổ túc mà rớt nước mắt. Ba bác ốm nhom xanh lè, mình mẩy đầy ghẻ lở. Bác Sáu Chì mặc áo bà ba và quần cụt trắng đã nhục nhục. Còn cái quần dài trắng thì Bác xếp kỹ, kẹp trong nách”.
Ra tù, Bác Sáu liền vào “R” để tiếp tục sự nghiệp giáo dục, lúc đầu công tác tại Tiểu ban Giáo dục Trung ương Cục miền Nam chung với các giáo sư Lê Văn Chí và Nguyễn Văn Kiết. Sau được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Sài Gòn - Gia Định. Với danh nghĩa đó, giáo sư Nguyễn Văn Chì được mời tham dự Đại hội thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Miền Nam Việt Nam (tháng 6/1969) và được bầu vào Đoàn Chủ tịch Đại hội. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, bác Sáu được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam TPHCM từ tháng 7/1975 cho đến khi về hưu năm 1983.