Quang cảnh hội thảo trao đổi ý kiến công tư giữa doanh nghiệp Nhật Bản và các Bộ, ngành Việt Nam về lĩnh vực thực phẩm(Thanhuytphcm.vn) - Sáng 14/3, tại TPHCM, Văn phòng đại diện Tổ chức Thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (Jetro) tại TPHCM tổ chức hội thảo trao đổi ý kiến công tư giữa doanh nghiệp Nhật Bản và các Bộ, ngành Việt Nam về lĩnh vực thực phẩm.
Tại cuộc họp, đại diện phía doanh nghiệp Nhật Bản phản ánh: Hiện nay, theo quy định của Việt Nam đối với thực phẩm lần đầu tiên nhập khẩu vào Việt Nam, trước khi nhập khẩu, nhà nhập khẩu phải làm thủ tục đăng ký công bố hợp quy với Cục An toàn thực phẩm - Bộ Y tế sau khi tiến hành đánh giá hợp quy đối với sản phẩm nhập khẩu. Cụ thể, hồ sơ cần thiết để công bố hợp quy sẽ khác nhau phụ thuộc vào việc sản phẩm cần công bố đã có quy chuẩn kỹ thuật tại Việt Nam hay chưa. Tuy nhiên, trong trường hợp sản phẩm chưa có quy chuẩn kỹ thuật tại Việt Nam, sau khi làm hồ sơ đăng ký và mặc dù đã nộp kết quả kiểm nghiệm thành phần của sản phẩm nhưng Cục An toàn thực phẩm - Bộ Y tế vẫn thường xuyên yêu cầu nộp kết quả kiểm nghiệm bổ sung để xác nhận xem trong sản phẩm này có chứa các chất đặc biệt hay không. Vì vậy, đại diện doanh nghiệp Nhật Bản đề nghị Chính phủ Việt Nam công khai các tiêu chí về việc thực phẩm nào và thành phần nào thì cần phải nộp kết quả kiểm nghiệm bổ sung.
Trả lời vấn đề này, Phó Cục trưởng Cục An toàn vệ sinh thực phẩm (Bộ Y tế) Lê Văn Giang giải thích: Về vấn đề kiểm nghiệm, Việt Nam quy định rằng, sẽ công nhận các kết quả kiểm nghiệm từ phía Nhật Bản nếu như kết quả đó được công bố từ các phòng kiểm nghiệm đã đạt tiêu chuẩn. Do đó, khi sản phẩm nhập khẩu vào Việt Nam sẽ chỉ kiểm tra thêm một số yếu tố theo quy định của Việt Nam đối với những quy định chỉ tiêu kỹ thuật nào đó mà trong phiếu kiểm nghiệm cung cấp từ phía Nhật Bản không đáp ứng đủ.
Ở Việt Nam cũng giống như các nước, do số lượng nhóm sản phẩm thực phẩm có được theo quy định quy chuẩn kỹ thuật không đều và rất hạn chế nên phải dựa vào bản chất sản phẩm đó được cấu tạo từ thành phần gì và Cục đã có văn bản để căn cứ vào đó đề ra các chỉ tiêu cần phải kiểm tra. Đối với các nhóm an toàn thực phẩm khác như vi sinh thì tại Việt Nam đã có văn bản chung, trong đó có danh sách theo nhóm sản phẩm thực phẩm và danh sách này đã được công bố trên các trang mạng của Chính phủ và Cục trưởng Cục An toàn vệ sinh thực phẩm sẵn sàng cung cấp danh sách bằng bản tiếng Nhật nếu phía doanh nghiệp Nhật Bản yêu cầu.
Liên quan đến tần suất và thời gian kiểm dịch động vật, phía doanh nghiệp Nhật Bản cho biết: Theo quy định của Luật Thú y, Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, khi xuất khẩu các mặt hàng thịt và rau, củ, quả vào Việt Nam phải tuân thủ nghĩa vụ kiểm dịch động thực vật. Thực tế hiện nay, việc kiểm tra mẫu thử động vật theo nguyên tắc được tiến hành đối với mỗi lần nhập khẩu. Cụ thể, việc kiểm tra mẫu thử đối với các mặt hàng thịt khoảng 7 ngày và mặt hàng rau, củ, quả là 4 ngày. Với việc kiểm tra mẫu thử đối với mỗi lần nhập khẩu trở thành chướng ngại cho việc mang những mặt hàng thực phẩm tươi sống đến với người tiêu dùng tại Việt Nam. Vì vậy, phía doanh nghiệp Nhật Bản mong muốn Chính phủ Việt Nam có thể xem xét việc giảm tần suất kiểm tra mẫu thử và rút ngắn thời gian kiểm tra.
Về vấn đề này, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) Hoàng Trung thông tin: Theo tinh thần cải cách của Chính phủ, hiện nay, quy trình kiểm dịch thực vật đối với rau, củ, quả qua đường biên giới trong vòng 4 tiếng đồng hồ là thông quan; qua đường sân bay là 10 tiếng. Còn với trường hợp phía Nhật Bản nêu là 4 ngày thì mong đại diện phía Nhật Bản cung cấp diễn ra ở đâu để lãnh đạo Cục Bảo vệ thực vật cho kiểm tra và xử lý ngay những nơi làm không đúng theo quy định.
Còn Phó Cục trưởng Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) Đàm Xuân Thành khẳng định: Về tần suất kiểm tra mẫu thử căn cứ vào nguy cơ gây dịch bệnh cho gia súc, gia cầm và thủy sản trong nước và việc này được tuân thủ theo Luật Thú y năm 2015 và thông lệ quốc tế. Về thời gian kiểm tra thông quan đối với sản phẩm động vật nhập khẩu vào Việt Nam đều áp dụng hệ thống đăng ký một cửa quốc gia nên rất nhanh và theo quy định của Luật Thú y tối đa là 3 ngày. Hiện nay, theo mô hình giải quyết thủ tục thông qua hệ thống một cửa quốc gia thì tần suất kiểm tra có thể giảm.
Còn Trưởng phòng Cục Giám sát quản lý về Hải quan (Tổng Cục Hải quan) Đào Duy Tám thừa nhận: Hiện nay, một doanh nghiệp muốn lấy được mẫu thử hàng tại cửa khẩu thì phải mời cơ quan kiểm tra chuyên ngành, cơ quan hải quan (đơn vị trực tiếp giám sát hàng hóa tại cửa khẩu), cảng vụ. Dự kiến sắp tới Hải quan đang nghiên cứu sửa đổi Nghị định và Thông tư liên quan, trong đó quy định cơ quan hải quan sẽ không thực hiện việc giám sát lấy mẫu. Cụ thể, việc giám sát lấy mẫu chỉ dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro, còn việc lấy mẫu sẽ giao cơ quan kiểm tra chuyên ngành và cảng vụ, sau khi doanh nghiệp đăng ký thông tin lấy mẫu trên hệ thống một cửa quốc gia. Do đó, thời gian lấy mẫu chắc chắn sẽ giảm bớt được cho doanh nghiệp.
Đối với việc rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa tại cửa khẩu, hiện nay cơ quan hải quan đã quy định cụ thể trong thông tư và văn bản liên quan là đối với hàng hóa kiểm dịch thì được phép đưa về các địa điểm bảo quản do doanh nghiệp đăng ký với cơ quan hải quan và do cơ quan kiểm dịch xác nhận. Do vậy, thời gian hàng hóa lưu giữ tại cửa khẩu không bị kéo dài. Điều này giải quyết những khó khăn và chi phí phát sinh cho doanh nghiệp trong thời gian lưu giữ hàng hóa tại cửa khẩu.