Thứ Hai, ngày 15 tháng 12 năm 2025

Đồng chí Phan Kiệm - Sắt son niềm tin với Đảng

Chân dung đồng chí Phan Kiệm

(Thanhuytphcm.vn) - Đồng chí Phan Kiệm sinh ngày 15/7/1920 tại xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị trong một gia đình nghèo, một quê hương giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm. Đồng chí tham gia cách mạng từ rất sớm (năm 1936), được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam ngày 15/12/1937, chính thức ngày 15/2/1938.

Mới 18 tuổi (năm 1938), đồng chí đã là Bí thư chi bộ, khi tròn 19 tuổi (năm 1939) trở thành Huyện ủy viên huyện Triệu Phong.

Năm 1940, đồng chí làm Phó Bí thư Huyện ủy huyện Triệu Phong và cũng năm này, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam và kết án 20 năm tù. Tháng 11/1940, chúng chuyển đồng chí từ Nhà tù Lao Bảo về Nhà tù Buôn Mê Thuột. Thời gian bị giam ở Nhà tù Buôn Mê Thuột, đồng chí vẫn kiên cường giữ vững khí tiết người cộng sản, đồng thời, tham gia tổ chức nhiều cuộc đấu tranh. Sau nhiều lần đấu tranh trong lao tù, thực dân Pháp giam đồng chí vào nhà lao 2 (nhà lao cấm cố).

Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, những cuộc đấu tranh trong nhà lao diễn ra liên tục, buộc chính quyền Pháp phải thả một số tù chính trị của ta, trong đó có đồng chí Phan Kiệm.

Đồng chí Phan Kiệm cùng gia đình sau ngày thống nhất đất nước (Nguồn: Gia đình cung cấp) Đồng chí Phan Kiệm cùng gia đình sau ngày thống nhất đất nước (Nguồn: Gia đình cung cấp)

Trong thời gian này, cơ sở Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc phát triển khá rộng rãi. Tháng 5/1945, Hội nghị thành lập Ban lãnh đạo lâm thời của tỉnh Đắk Lắk họp, phân công đồng chí Phan Kiệm làm Trưởng ban phụ trách công tác binh vận, nắm tình hình các đồn điền, thôn buôn, kiêm Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh.

Từ tháng 4/1945 đến tháng 1/1946, sau khi ra tù, đồng chí được phân công về làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk.

Trong những ngày gần Cách mạng Tháng Tám, đồng chí tổ chức nhiều điểm giành chính quyền trên toàn tỉnh Đắk Lắk. Ngày 19/8/1945, Ban lãnh đạo lâm thời của tỉnh họp hội nghị khẩn cấp để nghe thông báo tình hình khởi nghĩa ở các tỉnh bạn và quyết định thời điểm khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh. Đồng chí Phan Kiệm được bầu làm Trưởng ban Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Đắk Lắk. Ngày 24/8/1945, với cương vị là Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh, Trưởng ban Ủy ban khởi nghĩa, đồng chí Phan Kiệm đã cùng với Ủy ban lãnh đạo khởi nghĩa tổ chức giành chính quyền tại Buôn Mê Thuột thành công. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, với trách nhiệm là người phụ trách chung Ban cán sự Đảng tỉnh Đắk Lắk, đồng chí chăm lo củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng còn non trẻ, chuẩn bị cho ngày tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa của tỉnh Đắk Lắk.

Cuốn sách Mật mã Đặc khu của Nhà xuất bản Tổng hợp TPHCM xuất bản đã tái hiện cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của đồng chí Phan Kiệm (Nguồn: Nxb Tổng hợp TPHCM) Cuốn sách Mật mã Đặc khu của Nhà xuất bản Tổng hợp TPHCM xuất bản đã tái hiện cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của đồng chí Phan Kiệm (Nguồn: Nxb Tổng hợp TPHCM)

Từ tháng 1/1946, đồng chí Phan Kiệm được phân công về Khu V công tác, phụ trách mặt trận Bình Định, An Khê, là Chính trị viên tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 95 Khu V.

Từ tháng 6/1947, Trung ương điều đồng chí vào chiến trường Nam Bộ làm Chính ủy Trung đoàn, phụ trách các lực lượng đưa đồng chí Lê Duẩn và Ủy ban Kháng chiến miền Nam vào Nam Bộ. Năm 1948, đồng chí được bổ nhiệm làm Chính ủy trường Lục quân Nam Bộ.

Từ tháng 1/1949 đến tháng 5/1949, đồng chí giữ chức vụ Phó Phòng Dân quân Khu 8 Nam Bộ.

Từ tháng 6/1949 đến năm 1950, đồng chí làm Trưởng Phòng Dân quân Khu Sài Gòn - Gia Định rồi Khu VII, Khu ủy viên và Quân khu ủy viên.

Thực hiện Nghị quyết của Xứ ủy Nam Bộ (tháng 4/1950), Hội nghị cán bộ Khu Sài Gòn công bố thành lập Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Địa bàn Đặc khu bao gồm thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và một phần các huyện vùng ven thuộc tỉnh Gia Định, Chợ Lớn như Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Trung Huyện, do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm Chủ tịch Đặc khu. Đặc khu ủy được bầu ra do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư, đồng chí Phan Kiệm được bầu làm Khu ủy viên. Ban Chỉ huy quân sự Đặc khu cũng được bầu ra, đồng chí Phan Kiệm là Chỉ huy phó và sau đó là Quyền Chỉ huy trưởng.

Đầu năm 1953, trên cương vị Quyền Chỉ huy trưởng, kiêm Chính ủy Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, Ủy viên Thường vụ Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng chí đã đề xuất với đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Đặc Khu ủy phương án cài người vào hàng ngũ địch và được chấp thuận.

Cuối năm 1953 đến năm 1954, đồng chí đi học chỉnh Đảng của Trung ương mở ở Khu 5, là Khu ủy viên Khu V.

Sau Hiệp định Genève, trong khoảng thời gian từ tháng 8/1954, đồng chí Phan Kiệm được phân công ở lại miền Nam tiếp tục nhiệm vụ Khu ủy viên Đặc khu Sài Gòn, phụ trách Bí thư Liên quận 1 - 4, nơi trọng điểm của Khu ủy, để xây dựng và phát triển mạng lưới chi bộ đảng, tạo hạt nhân đẩy mạnh phong trào đấu tranh trong quần chúng, liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các quận. Đến cuối năm 1955, đồng chí được bổ nhiệm Ủy viên thường vụ Khu ủy. Cuối năm 1956 đồng chí được phân công làm Phó Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Đây là thời kỳ địch khủng bố rất ác liệt, lại nhận trọng trách ngày càng lớn, hoạt động “lúc ẩn, lúc hiện” cạnh hang ổ kẻ thù, đồng chí đổi tên thành Năm Vân. Đồng chí Phan Kiệm luôn tỏ rõ là người lãnh đạo tốt, quan tâm chăm lo, giữ gìn và tạo dựng cơ sở cách mạng, bảo vệ cuộc sống của nhân dân, được đồng chí, đồng bào yêu thương, tin tưởng.

Ngày 9/10/1957, một kẻ phản bội đã khai ông, một cái bẫy được giăng sẵn nơi điểm hẹn. Năm Vân - Phó Bí thư Khu ủy, người nắm toàn bộ cơ sở cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn, bị bắt, giam ở Sài Gòn, Mỹ Tho và Phú Lợi. Một tuần sau, ở một vùng ven Sài Gòn, vợ ông sinh con gái thứ hai Phan Thu Nga.

Đồng chí đã vượt qua mọi cuộc hỏi cung, tra tấn và những cuộc đấu trí căng thẳng trong nhà tù của địch. Những đòn tra tấn khốc liệt nhất được dành cho Năm Vân để tra hỏi nơi chốn của các thành viên khu ủy, xứ ủy, nơi các lãnh đạo Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Ba Duẩn (Lê Duẩn) đang trú chân. Chỉ mấy ngày mà Năm Vân gãy gần hết hai hàm răng, ba xương sườn, một tai bị thủng màng nhĩ. Nhưng đổi lại vẫn chỉ là cái lắc đầu.

Hơn hai tháng liên tục tra tấn nhưng đặc cảnh miền Đông và công an Ngô Quyền vẫn không khai thác được gì, chúng chuyển đồng chí Năm Vân về Ty công an Định Tường (Mỹ Tho) để áp dụng biện pháp mạnh hơn. Tại đây, từ dùng sức mạnh để tra tấn, dùng thủ đoạn để mua chuộc, đến dùng chiêu bài tố cộng, thảo luận chính trị... trái tim cộng sản của ông vẫn không bị lung lay. Tháng 7/1959, đồng chí Phan Kiệm cùng 400 tù nhân bị đày ra Côn Đảo.

Tại Lao 1 nhà tù Côn Đảo, đồng chí Mai Chí Thọ tham gia vào cuộc đấu tranh chống ly khai sinh tử; trong Sổ tang của ông còn bút tích của “Nguyễn Văn Lai - người bạn nhỏ chuồng Cọp Côn Đảo: Tôi nhớ mãi câu nói của anh ở Chuồng Cọp: Sống làm cách mạng phải chung thủy với Đảng, với Dân. Mày còn ông già nuôi (ông Nguyễn Đức Thuận) và tao là dượng mày còn sống ở đây thì không bị cô độc. Cứ vững vàng kiên định, sống vì Đảng, chết cũng vì Đảng”. Cuối 1960, Sài Gòn cho lệnh áp giải ông trở về để tiếp tục điều tra, khai thác. Đã mấy lần toan tính vượt ngục hụt ở Gia Định, Định Tường, Năm Vân quyết thực thi một kế hoạch táo bạo, đổi mạng để tìm lấy tự do.

Ngày 6/1/1961, trên chuyến tàu bị địch giải trở về Sài Gòn để khai thác tiếp, đồng chí Phan Kiệm đã dùng mưu trí vượt ngục thành công, trở về với đất liền, với cách mạng.

Từ năm 1961 đến năm 1965, đồng chí Phan Kiệm được phân công là Phó Trưởng Tiểu ban Tuyên truyền kiêm Tổ trưởng nghiên cứu tổng hợp của Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam.

Từ năm 1965 đến năm 1971 là Trưởng Tiểu ban đô thị của Ban Công vận Trung ương Cục miền Nam.

Từ năm 1971 đến năm 1972 là cán bộ biệt phái của Trung ương Cục xuống công tác tại Khu Sài Gòn - Gia Định.

Từ năm 1973 là học viên Trường Nguyễn Ái Quốc của Trung ương Cục miền Nam[1], [2].

Do hoạt động trong điều kiện hết sức khó khăn, ác liệt và thiếu thốn, lại bị tù đày, nên đồng chí được tổ chức đưa ra miền Bắc trị bệnh. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đồng chí Phan Kiệm về công tác tại Văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh và nghỉ hưu năm 1978.

Đồng chí Phan Kiệm mất ngày 7/10/1998.

Hơn 60 năm đứng trong hàng ngũ của Đảng với nhiều cương vị công tác khác nhau, đồng chí Phan Kiệm đã để lại cho bạn bè, đồng chí và nhân dân một tấm gương về lòng tin và sự tất thắng của cách mạng, về đạo đức của người cộng sản, về cách sống chân thật, giản dị, chan hòa, về đức tính khiêm tốn và gần gũi với mọi người, với đồng chí, bạn bè. [3],[4]

Với những đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp cách mạng, đồng chí Phan Kiệm đã được Đảng, Nhà nước trao tặng và truy tặng những phần thưởng cao quý:

- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

- Huân chương Độc lập hạng II.

- Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng I.

- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng I.

- 2 Huân chương Quân công hạng III.

- Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng II.

- Kỷ niệm chương Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt, tù đày, trung kiên bất khuất.

Tại thành phố Buôn Mê Thuột, tỉnh Đắk Lắk hiện có một con đường mang tên Phan Kiệm. Đây là sự ghi nhớ xứng đáng của các thế hệ Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với đồng chí Phan Kiệm, Bí thư đầu tiên của Tỉnh ủy Đắk Lắk.[5]

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM

-----------

 

[1]Sơ yếu lý lịch đảng viên Phan Kiệm, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng sao tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng

[2]Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân Quận 4 (1930 - 1975), Nxb. Tổng hợp TPHCM 2007

[3] Điếu văn tại Lễ truy điệu đồng chí Phan Kiệm, ngày 9/10/1998

[4] Tiểu sử tóm tắt các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk qua các thời kỳ - Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh Đắk Lắk, tháng 12/2005

[5]Mật mã Đặc Khu - tác giả Phan Tùng Sơn, Nxb. Tổng hợp TPHCM, 2017


Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo