Thứ Hai, ngày 15 tháng 12 năm 2025

Đi qua một mùa xuân – nhớ Tết 1973

Hành quân

Đó là một đêm tháng 12 năm 1972, đơn vị chúng tôi trú quân tại cánh rừng ngã 3 biên giới – Binh Trạm 37, Đoàn 470 – để chờ nhận pháo. Đồn rằng pháo 57, loại cao xạ pháo lớn nhất chiến trường thời bấy giờ. Chúng tôi háo hức chờ đợi, bởi vì so với loại cao xạ “mười-hai-ly-vác” (12,7mm) mà chúng tôi vác suốt mùa mưa từ Sông Xen, vượt sông Mê Kông, qua Stung-Treng sang Đức Cơ – Gia Lai thì quả là một trời một vực.

Một buổi sáng sớm, chúng tôi ra suối rửa mặt thì thấy hàng loạt B52 thả khói trắng bay chéo trên bầu trời từ hướng 14 (Đông – Bắc) bay sang phía Thái Lan. Với con mắt trinh sát cao xạ, tôi nghĩ: “Quái, chúng đi đâu mà về sớm thế nhỉ?”. Vừa hay, anh Ngọ chính trị viên Đại đội thông báo: “B52 đánh Hà Nội. Đài Tiếng nói Việt Nam bị mất sóng rồi!”

Chúng tôi về lán, lặng lẽ nhìn nhau. Cái gì sẽ xảy ra nữa đây? Hai tháng trước, ngày 26/10, chúng tôi nghe được bản tuyên bố của Chính phủ ta lên án thái độ lật lọng của Mỹ, đã không chịu ký vào Hiệp định Hòa bình như đã thỏa thuận. Bây giờ chúng đem B52 đánh Hà Nội và miền Bắc, kiểu tàn sát này thì tổn hại không biết bao nhiêu mà tính. Chúng tôi vừa trải qua một mùa mưa dọc đường 19, đã biết thế nào là B52. Chúng rải bom cả ban ngày lẫn ban đêm. Cánh rừng nguyên sinh âm u là thế, chỉ sau 3 loạt bom B52, sáng ra đã có thể nhìn thoáng hàng cây số. Đêm 4/10/1972, lúc 22 giờ, Trung đội tôi nằm giữa vệt bom, mà không ai việc gì, chỉ có tôi bị thương. (Năm 1998, anh em biên phòng Gia Lai đưa tôi quay lại chỗ ấy, nhưng không còn dấu vết gì trong trí nhớ của tôi).

Rồi pháo 57 cũng vào. Chúng tôi đón nhận anh bạn kềnh càng, nặng khoảng 4 tấn, một cách âu yếm. Pháo do Trung đoàn 591 giao, anh Nghĩa đại đội phó ở lại để huấn luyện cho chúng tôi. Ngay lập tức, chúng tôi được lệnh hành quân vào Nam, vừa đi vừa huấn luyện. Lúc này không phải vác bộ nữa mà được ngồi trên ô tô Hoàng Hà của Trung Quốc (y như Zil-157 của Liên Xô, nhưng nhanh nóng máy). Tuy nhiên, lại có nỗi vất vả của việc đào hầm. Một hầm cho pháo 57 ly to như cái chuôm thả cá, lại còn 2 hầm chữ A cho người, phải đào nhanh trong vòng 1-2 giờ, mà nhân lực chúng tôi chỉ có 6 người. Pháo phải kéo bộ vào, rồi lại phải xóa dấu bánh xe, chặt cây ngụy trang ngay trong đêm, để sáng ra không có dấu vết.

Một buổi sáng chúng tôi thấy máy bay trinh sát OV-10 bay rất sớm, rồi một tốp F4 đến thả bom xối xả xuống sông Xê-Xan, cách chỗ chúng tôi khoảng 500 mét về phía thượng nguồn. Chúng tôi muốn bắn thử lắm, nhưng không được lệnh. Thì ra mục tiêu của chúng là chiếc ca-nô của đơn vị nào đó bị mắc kẹt bên ghềnh đá. Một mục tiêu như thế mà chúng dùng đến 8 lượt F4 để oanh tạc. Kết quả là chiếc ca nô tan tành, nhưng người thì chắc không sao, vì anh em đã lên bờ từ đêm. Một lúc sau, anh nuôi Đại đội báo tin: dưới vực có rất nhiều cá bị trúng bom chết nổi lên dày đặc. Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy những con cá to như cái cột lim, nặng mấy chục cân. Cả Đại đội được mẻ ăn cá phát chán, gặp đơn vị nào cũng cho, ăn mấy ngày chưa hết.

Pháo cao xạ 57 ly cần 5 pháo thủ, trong đó nặng nhất là vị trí số 5, phải quay tời nặng 75 kg, cho khóa nòng pháo lùi, để nạp đạn. Tôi được phân công vị trí số 1 đạp cò (mà lại đạp chân trái y như đạp côn ô tô) và quay hướng. Quay hướng cho cỗ pháo nặng hàng tấn chẳng nhẹ nhàng chút nào, nhất là khi cần đổi hướng 1800. Vị trí số 3 duy trì bảng cự ly và vị trí số 4 lấy mô hình theo hướng máy bay thì nhẹ hơn, nhưng đầu lại nhô cao, dễ chết. Chỉ có vị trí số 2 quay tầm cho nòng pháo ngóc lên, ngóc xuống là nhàn hạ nhất.

Rồi bất ngờ, chúng tôi được lệnh hành quân thẳng vào Nam, không dừng lại huấn luyện nữa. Thế là trong quân lại đồn đại về nhiệm vụ mới.

Tết hòa bình

Tin đồn rằng: hãy đón nhận 1 sự kiện quan trọng. Đài BBC đưa tin nguyên Tổng thống Mỹ Johnson chết. Chẳng có gì là quan trọng. Khi chúng tôi về đến gần biên giới thì được thông tin chính thức: Hiệp định Hòa bình Paris được ký kết!

Trời ơi! Hòa bình! Hòa bình thật ư?

Không ai bảo ai, cánh lính trẻ chúng tôi vứt tung lá ngụy trang, xe pháo chạy băng băng trên đường rừng. Lúc ấy mới thấy ô tô ở đâu mà lắm thế! Xe pháo chúng tôi kềnh càng chạy vào giữa đoàn xe vận tải có đến cả trăm chiếc. Xe họ chạy nhanh hơn, xin đường, còi inh ỏi. Không vượt được, họ lao cả xuống trảng trống để vượt lên trước.

Dẫu biết chiến tranh chưa kết thúc, nhưng lòng dạ chúng tôi thật nôn nao khó nói. Chỉ muốn khóc. Đài Phát thanh Giải phóng mở oang oang, nghe nội dung Hiệp định, và nhất là bài hát: “Đường chúng ta đi” do ca sĩ Kim Oanh hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam.

Sau này, ngay cả ngày 30/4 toàn thắng hào hùng như thế, nhưng với tôi, không thể sánh với ngày 28/1/1973, ngày công bố Hiệp định Paris!

Vượt biên giới, tiến vào đất Việt Nam – Tỉnh Bình Phước, phải qua sông Măng bằng một cây cầu sắt cũ kỹ. Xe của Tiểu đội tôi đi đầu. Theo công binh cho biết thì cầu này xe tải có thể qua được, còn xe tăng phải đi đường ngầm (lội dưới sông). Xe kéo pháo của chúng tôi không phải xe tải, cũng không phải xe tăng, dài khoảng 15 mét. Cậu Hùng, lái xe xuống xem xét rồi quyết định cứ qua cầu, vì bây giờ mà phải lùi cả xe pháo lại thì khó khăn lắm. Chúng tôi vẫn ngồi trên thùng xe, và qua cầu trót lọt, an toàn.

Nhưng đến xe thứ 2 của Tiểu đội anh Trần Quốc Phi thì có chuyện. Khi xe pháo qua cầu, đầu chiếc xe tời vừa đến mố cầu bên kia thì chiếc cầu từ từ... gãy! Mọi người hồi hộp chờ xe pháo rơi tõm xuống vực, thì cây cầu từ từ... dừng lại! Mà nó võng xuống như chữ V, một nét xe, một nét pháo. Cậu lái xe rón rén bò ra khỏi cabin, mặt cắt không còn giọt máu.

Sau khi nghiên cứu, Tiểu đội trưởng Trần Quốc Phi nhờ mỗi đầu 1 xe để kéo xe và pháo rời nhau ra. Đây là việc làm duy nhất đúng, nhưng rất mạo hiểm. Ai sẽ là người bò ra giữa để tháo rời xe khỏi pháo? Lẽ dĩ nhiên là Trần Quốc Phi.

Trần Quốc Phi là người đặc biệt. Anh nhập ngũ năm 1966, khi 20 tuổi, đã có vợ nhưng chưa có con, năm ấy là Trung sĩ, A trưởng. Vào bộ đội cao xạ ngay, và đã đánh hàng trăm trận từ Hải Dương, Hàm Rồng, rồi vào B. Sau này, tôi mới biết gia đình anh có mối quan hệ thân tình với gia đình Thủ tướng Phan Văn Khải. Tập kết ra Bắc, ông Phan Văn Khải đi “cái cách ruộng đất” ở Vĩnh Phúc, ở ngay trong nhà Phi, gọi mẹ anh là “chị”. Đến những năm Mỹ đánh phá miền Bắc, gia đình ông Khải lại đưa các con về sơ tán ở nhà Phi. Hòa bình 1975, Phi ở lại miền Nam, làm việc ở Công an quận 3, anh đưa mẹ vào cùng sống. Khi bà cụ bệnh nằm liệt giường mấy năm, ông Khải lúc ấy là Thủ tướng, đến thăm nhiều lần và cho tiền “đến mấy chục triệu”, theo như Phi nói.

Khi có pháo 57 ly, nhìn B52 bay thong dong, Phi có mơ ước... bắn rơi B52. Về lý thuyết, pháo 57 có tầm bắn 12.000m, trong khi B52, bay ở độ cao 8.000m, đường bay lại rất ổn định. Mấy lần anh muốn thử, nhưng cấp trên không cho.

Quay lại chuyện “cứu xe pháo” trên cầu, Phi lặng lẽ xách búa bò ra, lần đến khớp nối xe – pháo, tháo chốt. Ra giữa cầu, Phi ra hiệu cho xe 2 bên kéo căng ra. Do lực kéo căng nên không thể tháo chốt bình thường được. Thế là Phi vung búa nện thẳng cánh. Khi chốt hãm bật ra, càng pháo hất lên, đánh vào giữa trán anh. May là không vào mắt. Xe và pháo từ từ lui về 2 bên, chỉ còn lại Trần Quốc Phi, bám lơ lửng như con nhái giữa cầu.

Về đất Việt Nam, lâu lắm chúng tôi mới nhìn thấy người phụ nữ mặc bà ba, đội nón lá. Thấy trong xe lố nhố bộ đội, họ vẫy nón, còn chúng tôi thì reo hò, vẫy lá ngụy trang. Bụi mùa khô, rừng miền Đông đỏ cuồn cuộn.

Chiều 29 Tết năm ấy, chúng tôi vào vị trí tập kết ở phía Đông Bắc sân bay Bù Đốp. Nhanh chóng chuẩn bị Tết. Chia nhau ra, đào hầm, đưa pháo vào trận địa, còn lại thì lo Tết. Có gì đâu mà lo. Hậu cần Sư đoàn cho một ít cá tra khô, còn lại thì tự túc. Lấy thuốc B1 cho vào bi đông lắc mạnh, may ra đến mai có... mùi rượu! Tôi lấy thuốc tím màu đỏ và thuốc ký ninh màu vàng làm một cành hoa đào nom rất thô, nhưng mà vui mắt. Cả buổi chiều 30, Đài Phát thanh Giải phóng phát vở kịch thơ “Hùng Vương kén rể”, đầy ấn tượng.

Sáng mùng Một có một phụ nữ bỗng từ đâu lạc vào trận địa chúng tôi. Anh em tôi đưa vào hầm Đại đội trưởng Lê Văn Thố. Anh Thố là Đại đội trưởng, chưa đảng viên. Bọn chúng tôi cứ đi đi lại lại trước lán Ban chỉ huy, và cùng nhau gọi người phụ nữ kia là “chị Thố” và “chị Thố” ra đi lúc nào, chúng tôi không biết.

Sau Tết, bất ngờ chúng tôi phát hiện ra, cách chúng tôi không xa, là lán của Đoàn Văn công Tỉnh đội Bình Phước. Bộ đội mà gặp văn công thì hết ý. Sương, Hằng, Mơ... mấy cô múa hát đều rất đẹp. Có cô Ý, dáng người lưng ong, mà chúng tôi gọi là “lưng gãy lợn ỷ”, người ấy đẻ sòn sòn... Anh em bộ đội chính quy chúng tôi ngớ ngẩn lắm, còn các cô thì bạo dạn hơn nhiều.

Năm 1973, toàn miền Đông bị đói do không vận chuyển được gạo từ Thái Lan qua. Chúng tôi phải đào củ chụp. Củ đào được đem cho cả các cô văn công. Củ chụp là củ mài, giống cây có củ đâm sâu thẳng xuống đất, có khi sâu mấy mét. Kinh nghiệm của người S’Tiêng - lấy cây lồ ô già, chẻ gốc ra làm 6 nhánh, vót nhọn từng nhánh. Khi phát hiện ra chỗ có củ mài, thộc cái “chụp” đinh 6 ấy sát bên cạnh, thọc xuống. 6 nhánh mở ra, ôm đất, thì đem lên gõ để lấy đất ra. Đào 1 cái hố rộng độ 20 cm, sát bên củ. Khi thấy hết đoạn củ thì nhẹ tay lay cho nó rời ra, về phía lỗ. Có củ dài cả mét, to bằng bắp tay. Rất thơm ngon, mà thuốc Bắc gọi là “Hoài Sơn”.

Buổi chiều ngày 28/3/1973, tôi mặc quần đùi đi chặt lồ ô, lúc trèo qua một cây mục, bị ngay một con bò cạp “tia” cho một phát vào đùi. Đau điếng, may mà con bọ cạp ấy còn “vị thành niên”, nếu gặp con già hơn thì tôi phải nằm liệt rồi. Buổi tối tôi được gọi lên làm lễ kết nạp Đảng. Cùng được kết nạp hôm ấy còn có Đại đội trưởng Thố, Bảy trinh sát và Phong thông tin. Trừ tôi, cả ba người kia đều là dân Hà Tĩnh.

Anh An Sơn Cường, Phó Đoàn kịch nói Hà Nội vào hay nói chuyện với chúng tôi, mấy anh em có “máu” văn nghệ. Bữa liên hoan “giao lưu” bộ đội với văn công, tôi viết một vở độc tấu, vừa nói, vừa hát chèo và cũng tự diễn. An Sơn Cường xin kịch bản, nói với tôi: Cậu có triển vọng! “Triển vọng” gì tôi cũng chưa biết!

Trong buổi giao lưu ấy, không ngờ có một tay cán bộ quân lực. Khi đơn vị đi làm nhiệm vụ mới thì tôi được đưa về Sư đoàn, cho vào Đội tuyên văn (văn công Sư đoàn). Tôi biết chỗ ấy có Lâm Huy Nhuận, người vừa được giải nhì cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ, với bài thơ “Thung lũng tiếng chim” viết về bộ đội thông tin.

Nhưng tôi không về “văn công” mà sang làm quân lực.

Từ đầu mùa khô năm 1973-1974, pháo cao xạ đánh nhau với máy bay quyết liệt, và nhiều thương vong.

Cuộc đời tôi rẽ sang một hướng khác.

Hoàng Đình Quang

Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo