Chủ Nhật, ngày 14 tháng 12 năm 2025

Để cho Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nước Việt Nam độc lập, dân chủ, xã hội chủ nghĩa - Một số ý kiến nhỏ góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

1. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được chuẩn bị khá công phu. Việc sửa đổi các chương và các điều, bao gồm bổ sung thêm mới, bỏ bớt, thay đổi vị trí là hợp lý, cơ bản theo định hướng Kết luận của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XI (tháng 5/2012), đã cố gắng thể hiện được quyền lực là thuộc về nhân dân.

Tuy vậy, để thực sự “Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước”, đạo luật nguồn trong hệ thống văn bản pháp luật của nước Việt Nam độc lập, dân chủ, chủ nghĩa xã hội, trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước; trong đời sống xã hội; thể hiện được ý chí và nguyện vọng chung của nhân dân, được nhân dân đồng tình tuân thủ, thi hành, cần phải tiếp tục sửa chữa, hoàn thiện. Hiến pháp phải thể hiện được “mọi quyền lực là thuộc về nhân dân”, và mọi công dân đều thấy được “quyền của mình”, “thấy mình trong đó”. Là đạo luật cơ bản, đạo luật mẹ nên Hiến pháp phải mang tính khái quát cao, ngắn gọn, rõ ràng, có “sức sống bền lâu”. Dự thảo còn quá dài, nhiều điều mang tính cụ thể, mà như vậy thì vừa thừa vừa thiếu vì không thể kể ra hết mọi thứ được. Ngay như lời nói đầu cũng còn dài; so với các Hiến pháp trước đây, có những đoạn được bổ sung vào lại không cần thiết, nó mang tính chất Cương lĩnh chính trị, Nghị quyết, Điều lệ của Đảng; mang tính chất tổng kết lịch sử dân tộc. Có thể lấy khổ 1, 2, 5 và sửa gọn lại khổ 3, 4: Từ khổ 3 nên viết “Kế thừa các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp này tiếp tục khẳng định ý chí của nhân dân và chủ quyền quốc gia; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa”, sau đó tiếp vào khổ 5 “nhân dân Việt Nam….”. Tương tự, các chương, mục khác nên viết khái quát, những gì chung nhất, còn những điểm cụ thể nên đưa vào luật.

2. Hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều hợp lý và cần thiết. Vì sao? Trước hết, nguồn gốc và nguyên nhân ra đời của Đảng CSVN hoàn toàn khác với các chính đảng khác, kể cả các Đảng Cộng sản, Đảng cánh tả trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế từ trước đến nay. Đảng CSVN ra đời là do nhu cầu đấu tranh chống thực dân, chống áp bức bóc lột, giải phóng dân tộc, nên Đảng luôn gắn liền với sứ mệnh của dân tộc. Ngoài lợi ích của dân tộc, quốc gia, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác, cho nên Đảng CSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, đồng thời là của dân tộc. Bác Hồ đã nói: “Dân không đủ muối, Đảng phải lo. Dân không có gạo ăn đủ no, dân không có vải mặc đủ ấm, Đảng phải lo. Các cháu bé không có trường học, Đảng phải lo… Việc xây dựng CNXH, CNCS, đấu tranh giành thống nhất nước nhà, Đảng phải lo. Ngay đến cả tương cà, mắm muối của dân, Đảng đều phải lo” (Hồ Chí Minh: Toàn tập. T10. NXH Chính trị Quốc gia, 2009 – tr463-464). Vì thế mà nhân dân Việt Nam gọi Đảng CSVN là Đảng Ta. Có tên gọi nào như thế trên thế giới từ trước đến nay? Bác Hồ cũng đã nói “Nếu cần có đảng thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam, Đảng của dân tộc Việt Nam”. (Hồ Chí Minh toàn tập – T4, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996 – Tr141-142). Thứ hai là, trong lịch sử đấu tranh chống thực dân đế quốc từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện Đảng CSVN là một nhân tố chính trị mới và hơn 8 thập niên vừa qua Đảng CSVN là nhân tố hàng đầu quyết định sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Tiêu biểu là sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám vĩ đại, của hai cuộc kháng chiến oanh liệt chống các đế quốc to; thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới hơn 25 năm qua. Trong những lúc khó khăn nhất của đất nước, như thời kỳ khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng trong hơn một thập niên sau giải phóng (1975), khi Liên Xô – Thành trì của CNXH và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, trong Đảng đã xuất hiện sự lung lay về tư tưởng, ý chí, nhưng các cuộc thăm dò dư luận xã hội, nhân dân vẫn bày tỏ ý kiến mang tính khẳng định “Không có đảng nào có công lao to lớn như Đảng CSVN”. Ngay cả hiện nay, dù “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu… còn tiếp tục diễn biến phức tạp”, sự gắn bó mật thiết với nhân dân, niềm tin của dân chúng có phần giảm sút; song nhìn đại thể, nhân dân vẫn tin Đảng, tin ở những Nghị quyết nghiêm túc về công tác xây dựng Đảng và luôn hy vọng Đảng CSVN mãi là Đảng của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, luôn “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

Hiến pháp là đạo luật trong đó có qui định về những quan hệ xã hội cơ bản liên quan đến lợi ích cơ bản của mọi tầng lớp nhân dân; phải phán ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thể hiện sự đồng thuận của nhân dân, nên chế định sự lãnh đạo của Đảng CSVN trong Hiến pháp của nước Việt Nam là điều tất yếu. Điều đó xứng đáng về đạo lý, chính đáng về pháp lý. Kinh nghiệm của Liên Xô vĩ đại, bỏ điều 6 trong Hiến pháp cũng là sự mở đầu cho sự hỗn loạn và đi đến sụp đổ thành trì cách mạng XHCN.

Vấn đề là phải xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng như các Nghị quyết đã nêu. Đảng lãnh đạo là nhờ bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ; nhờ Tổ chức chặt chẽ, nhờ kỷ cương, kỷ luật, nhờ đạo đức, lối sống trong sáng của đảng viên, thực sự là “người đầy tớ của nhân dân”… Vấn đề cốt lõi là ở đó. Cho nên Bác Hồ luôn nhấn mạnh vấn đề “Chỉnh đốn Đảng”, có lúc Bác nhắc là “phải làm ngay”, “phải làm trước tiên” để giữ được vai trò mà lịch sử, dân tộc đã giao là “Đảng cầm quyền”.

Tuy vậy, Hiến pháp khác với Cương lĩnh của Đảng dù Hiến pháp phải thể hiện được tinh thần, phải căn cứ vào Cương lĩnh. Cho nên Điều 4 cần điều chỉnh lại cho gọn và mang tính khái quát cao “Đảng CSVN, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân. Tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Còn bản chất của Đảng và nền tảng tư tưởng của Đảng đã được nêu trong Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng.

3. Ở Việt Nam, lực lượng vũ trang (quân đội – công an…) ra đời là do nhu cầu của cuộc đấu tranh chống thực dân, giải phóng dân tộc theo đường lối của Đảng CSVN. Đảng CSVN đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra Quân đội nhân dân Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Nhân dân là chủ thể đất nước, làm nên cộng đồng dân tộc Việt Nam, nên quân đội nhân dân chịu sự lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp của người sáng lập ra nó (Đảng CSVN); phụng sự người sinh thành ra nó (nhân dân); trung thành với nguồn gốc, mục tiêu sinh ra nó (giành và bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia theo đường lối của Đảng CSVN)… là điều tất yếu.

Thực tế trên thế giới, ở các nước có một đảng hay đa đảng thì quân đội vẫn do đảng cầm quyền lãnh đạo. Tổng thống là người của một đảng nào đó và là thống lĩnh, tổng tư lệnh (như ở Mỹ chẳng hạn) thì quân đội phải tuân thủ theo chủ trương của đảng đó.

Do đó không thể có cái gọi là “quân đội trung lập về chính trị”, “quân đội đứng ngoài chính trị”. Thực tiễn của sự hỗn loạn của Liên Xô vào những năm cuối thập niên 80 thế kỷ 20 là do quan điểm này, đã mở đầu cho sự sụp đổ của Liên xô XHCN năm 1991. Do vậy, hiến định sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng võ trang như điều 70 (sửa đổi, bổ sung điều 45 cũ) là hiển nhiên. Song có thể diễn đạt cho đúng với tinh thần câu nói của Bác Hồ năm xưa và như Hiến pháp năm 1992.

Ngày 26/5/1946, phát biểu với học viên trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, trường Đào tạo Sĩ quan đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác Hồ căn dặn: “Anh em ở đây bao giờ cũng phải theo hai khẩu hiệu mà nó là cái mục đích của anh em: Trung với nước, hiếu với dân (Hồ Chí Minh – Toàn tập, tập 4, trang 239. NXB Chính trị Quốc gia – 2002).

Dự lễ chiêu đãi nhân dịp kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, Bác Hồ khen ngợi: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH… Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là 1 quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục” (Hồ Chí Minh toàn tập – Tập 11. Tr.350. NXB Chính trị Quốc gia – 2002).

Hiến pháp năm 1992, điều 45 qui định: Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân

Vì vậy, nên điều 70 (sửa đổi, bổ sung điều 55): cần kết hợp thật logic các luận điểm trên theo một thứ tự hợp lý về thời gian: lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Đảng CSVN… Như vậy đưa Tổ quốc và nhân dân lên trước Đảng là phù hợp về mọi mặt.

4. Chế định chính quyền địa phương trong Hiến pháp là rất quan trọng trong hệ thống bộ máy Tổ chức Nhà nước. Nhưng Dự thảo qui định về chính quyền địa phương (chương IX) còn chưa thật đầy đủ, có chỗ lại mâu thuẫn. Trong Điều 115 (sửa đổi, bổ sung) có lẽ vì tránh sự trùng lắp 2 chữ “thành phố” mà gây nên sự vô lý. Tỉnh thì được chia thành huyện, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã; còn thành phố trực thuộc Trung ương chỉ được chia thành quận, huyện và thị xã. Trong lúc đó lâu nay thường là “nâng cấp” thị xã lên thành phố trực thuộc, nghĩa là thành phố trực thuộc tỉnh có vị trí lớn hơn thị xã dù về cấp hành chính là tương đương. Điều 116 qui định về Hội đồng nhân dân còn sơ lược, bởi hiện nay có nơi có HĐND, có nơi không, trong lúc hiến định lại chung chung.

Đại hội X của Đảng đã nêu “Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo” (văn kiện Đại hội X – tr.127). Điều đó có nghĩa là cần phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để xây dựng tổ chức bộ máy phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền ở từng khu vực có đặc trưng xã hội khác nhau. Ngay từ ngày đầu mới giành được độc lập dân tộc, dù còn phải đối đầu với “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về “Tổ chức chính quyền nhân dân ở địa phương” và ngay sau đó, ngày 21/12/1945 lại ban hành Sắc lệnh số 77 về “Tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành phố”. Như vậy từ rất lâu rồi, đã có sự phân biệt rõ ràng sự khác nhau của việc tổ chức quản lý địa bàn thành thị so với địa bàn nông thôn. Bộ Chính trị khóa X và khóa XI cũng đã cho phép thành phố Hồ Chí Minh thí điểm xây dựng chính quyền đô thị. Vậy cần xác định rõ chế định chính quyền đô thị trong Hiến pháp.

PGS.TS. Phan Xuân Biên Tổng Biên tập Website Đảng bộ TPHCM

Ý kiến bạn đọc

refresh
 

Tổng lượt bình luận

Tin khác

Thông báo