a) Mặt trận vǎn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, vǎn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động.
b) Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng vǎn hóa nữa.
c) Có lãnh đạo được phong trào vǎn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.
Điều này có thể hiểu rằng: thứ nhất, văn hóa là một mặt trận rất quan trọng bên cạnh các mặt trận khác (chính trị - giành độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc; kinh tế - cải thiện và nâng cao đời sống vật chất của người dân); Đảng, đảng viên phải hoạt động trong mặt trận này và tuyệt đối không được xem nhẹ.
Thứ hai, Đảng phải đồng thời thực hiện cả cuộc cách mạng về chính trị và cách mạng về văn hóa, tức là bên cạnh về giành độc lập, tự do thì phải tạo ra sự thay đổi về chất cho nhân dân ở đời sống tinh thần.
Thứ ba, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng trên lĩnh vực tuyên truyền, thuyết phục nhân dân là phải lãnh đạo được phong trào văn hóa. Lĩnh vực văn hóa được Đề cương nêu rõ là “bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”.
Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, ngày 14/11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu lại luận điểm trên: “Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển của đất nước ta, dân tộc ta, cho nên ngay từ trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hóa của dân tộc; và năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành được độc lập, Đảng ta đã đề ra "Đề cương Văn hóa Việt Nam", trong đó chỉ rõ "Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa)", và chủ trương phát triển văn hóa theo ba hướng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng”.
Trên thực tế, từ rất sớm, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp lãnh đạo các hoạt động văn hóa. Ngay khi vừa thành lập Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 3 nhiệm vụ cấp bách: chống giặc đói (cơ bản ứng với mặt trận kinh tế), chống giặc dốt (cơ bản ứng với mặt trận văn hóa), chống giặc ngoại xâm (cơ bản ứng với mặt trận chính trị); rõ ràng, nếu không cải thiện được tình trạng mù chữ trong nhân dân thì các nhiệm vụ khác cũng sẽ khó thực hiện đầy đủ.
Trong kháng chiến chống Pháp, dù các điều kiện còn rất hạn chế nhưng Đảng và Chính phủ đã có chủ trương xây dựng đời sống mới[1]. Ngày 3/4/1946, Ủy ban Vận động đời sống mới Trung ương được thành lập (sau đó lan tỏa đến các địa phương với mô hình tương tự) và đến tháng 3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và cho công bố cuốn sách “Đời sống mới”. Người giải thích, mặc dù trong lúc này, người thì lo đánh giặc, người thì lo phá hoại, người thì lo tản cư, toàn dân ai cũng khó nhọc vất vả, nhưng chính trong lúc này càng phải thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính; thực hành đời sống mới là một điều cần kíp cho công cuộc cứu quốc và kiến quốc…
Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943, do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn. (Ảnh: tư liệu)Xuyên suốt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, trong các đơn vị quân đội, ở vùng giải phóng, chính quyền địa phương thường xuyên tổ chức các hoạt động nâng cao đời sống văn hóa của người dân, như tổ chức các lớp bình dân học vụ, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim, làm báo, vận động sáng tác… Các hoạt động này ngày càng được mở rộng và hình thành nên nhiều lực lượng, trong đó có văn công” và đã góp phần quan trọng vào thành công của các cuộc kháng chiến.
Từ sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là thời kỳ đổi mới, các chỉ đạo, định hướng của Đảng và Nhà nước ta về văn hóa tiếp tục được đề cao với những chủ trương bám sát thực tiễn cuộc sống, trong đó có cả hội nhập quốc tế. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Nhìn lại những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới gần đây, chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp to lớn của nền văn hóa vào sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc”.
Tuy nhiên, lĩnh vực văn hóa vẫn còn hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém, trong đó hạn chế, yếu kém nổi bật được nhắc lại nhiều lần là văn hóa chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước…[2]. Điều này thể hiện ở việc một số địa phương đề cao tăng trưởng kinh tế mà xem nhẹ yếu tố môi trường, nâng cao đời sống tinh thần của người dân; văn hóa chỉ được xem đơn thuần là các hoạt động văn nghệ gắn với yếu tố giải trí chứ ít chú trọng vào việc xây dựng con người; sự tiếp thu văn hóa nước ngoài còn thiếu chọn lọc; trong hoạt động của hệ thống chính trị, đôi khi yêu cầu về “văn hóa đảng”, “văn hóa lãnh đạo”, “văn hóa công sở”… còn chưa được chú trọng đúng mức; một số mặt của đạo đức xã hội có dấu hiệu xuống cấp nhưng chậm được điều chỉnh, khắc phục…
Do đó, nhân kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương Văn hóa Việt Nam (1943 – 2023), cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cần có nhận thức đúng về “mặt trận vǎn hóa là một trong ba mặt trận” và trách nhiệm của mình “phải hoạt động” trong mặt trận đó. Yếu tố “phải hoạt động” bắt đầu từ hành vi, hành động của mình qua việc nêu gương và lan tỏa đến các lực lượng khác cũng như phải có những chỉ đạo, định hướng cụ thể theo điều kiện, vị trí của mình để góp phần vào việc phát triển văn hóa, nâng cao vai trò của văn hóa trong toàn xã hội.
Vân Tâm
------------------------------------
[1] Chẳng hạn, những năm 1945 – 1946, các cơ quan văn hóa, các đoàn thể do Đảng lãnh đạo đã tuyên truyền rất nhiều nội dung về “vận động đời sống mới”, trong đó có các gợi ý về ứng xử ở công sở, xin trích lại: “Ở các chỗ công chúng: 1. Công chức là người giúp dân. Không phải là quan phong kiến. 2. Vào công sở chớ khúm núm sợ sệt, mà cũng không lấc cấc ngạo nghễ. Mạnh dạn hỏi han: đấy là quyền của dân; hỏi han cho lễ độ: đấy là bổn phận của dân. 3. Không gọi chức việc là quan. Không gọi chức việc trẻ là cụ. Không nên xưng mình là con, cháu. 4. Đem tiền hối lộ là làm điều bất chính. 5. Phải tuân lời chỉ dẫn của các chức việc. Phải tôn trọng các luật lệ hợp pháp. 6. Không chịu để cho chức việc đối đãi khinh rẻ, mày tao hay chầu chực quá đáng. 7. Bị oan ức phải kêu, phải tranh đấu, không được nhẫn nhục chịu im. 8. Thấy người khác làm bậy không tố cáo là tòng phạm. Tố cáo chính đáng là một bổn phận, không phải là một hành vi hèn hạ. 9. Bổn phận dân là phải năng xem cho hiểu biết luật lệ hiện hành”. Nguồn: Tạp chí Tiên phong, số đặc biệt 15-16-17, ngày 19/8/1946.
[2] Trong bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu: “Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức năng giải trí. Phát triển các lĩnh vực văn hóa chưa đồng bộ, còn phiến diện, nặng về hình thức, chưa đi vào chiều sâu, thực chất. Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người. Môi trường văn hóa vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di sản văn hóa quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn lúng túng, chậm trễ, nhất là trong việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa. Đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao…”.