Thứ Sáu, ngày 13 tháng 12 năm 2024

Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Chánh lần thứ X nhiệm kỳ 2010-2015

Năm năm qua, Đảng bộ huyện Bình Chánh đã tập trung lãnh đạo chính quyền, mặt trận, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, sức mạnh của hệ thống chính trị, tập trung nỗ lực khắc phục khó khăn, huy động các nguồn lực, triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh, xây dựng từ một huyện nông nghiệp chuyển mạnh sang công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ, mở rộng không gian đô thị ở cửa ngõ phía Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh.

PHẦN THỨ NHẤT

KẾT QUẢ 05 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH CHÁNH LẦN THỨ IX NHIỆM KỲ 2005 - 2010

A/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

I/ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, XÂY DỰNG QUỐC PHÒNG -AN NINH

1/ Về phát triển kinh tế

Kinh tế huyện tiếp tục phát triển mạnh; tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức cao, bình quân 21,03%/năm, vượt 5,03% so với Nghị quyết Đại hội (14 - 16%/năm). Trong đó, ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp giữ vai trò chủ lực tăng trưởng chính của kinh tế, tăng bình quân 24,34%/năm (chỉ tiêu nghị quyết 20%); lĩnh vực thương mại - dịch vụ có nhiều khởi sắc, tăng bình quân 18,53%/năm (chỉ tiêu 17,5%), khu vực nông nghiệp có chuyển biến theo hướng tích cực, tăng bình quân 4,54%/năm (chỉ tiêu 2%).

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng mục tiêu nghị quyết và định hướng phát triển của huyện trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng 74,46%. Tỷ trọng ngành dịch vụ - thương mại chiếm 18,75%. Hành lang thương mại - dịch vụ dọc các trục lộ chính như: Quốc lộ 1A, đường Trần Đại Nghĩa, Tỉnh lộ 10, Quốc lộ 50, đường Vĩnh Lộc ngày càng được mở rộng. Qui mô các loại hình dịch vụ về tín dụng ngân hàng, thông tin bưu điện, kho tàng bến bãi, vận tải, dịch vụ lao động, bảo hiểm phát triển nhanh đáp ứng yêu cầu cơ bản phát triển sản xuất và nhu cầu đời sống của nhân dân trong huyện. Tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 19,71% (năm 2004) xuống còn 6,79% (năm 2010), trong đó cơ cấu nội bộ ngành có sự chuyển biến tích cực, ngành chăn nuôi tuy chiếm tỷ trọng thấp hơn so với trồng trọt nhưng có xu hướng tănr4g dần. Đã có nhiều mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao như: rau an toàn, lan cắt cành, cá kiểng, mai vàng. Kinh tế tập thể được tập trung chấn chỉnh, củng cố.

Đầu tư xây dựng cơ bản có sự tập trung mạnh mẽ; tốc độ tăng trưởng bình quân thanh toán vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội ở mức cao (bình quân 16,92%/năm); huy động nguồn vốn xã hội cho đầu tư được chú trọng, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, giải quyết lao động, cải thiện chất lượng cuộc sống người dân. Tổng vốn đầu tư hạ tầng kỹ thuật, xã hội từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước đạt trên 1.000 tỷ đồng.

Quản lý đô thị, nông thôn được chấn chỉnh quyết liệt, tạo sự chuyển biến đúng định hướng. Công tác quy hoạch có sự chỉ đạo tập trung tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đạt một số kết quả cơ bản, tình trạng quy hoạch “treo” được chú trọng giải quyết. Hoàn thành Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung 1/5000 của huyện (đang chờ Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt), các đồ án quy hoạch chi tiết 1/2000 đang tích cực triển khai thực hiện; đã khoanh vùng, xác định ranh giới quy mô, tiêu chí quy hoạch điểm dân cư nông thôn trên địa bàn huyện (gồm 10 xã) với tổng diện tích 2.091ha, dân số quy hoạch dự kiến khoảng 120.200 người, đang triển khai thực hiện thí điểm ở xã Qui Đức và Tân Nhựt. Quy hoạch ngành cũng được tiến hành khẩn trương, đã hoàn thành quy hoạch khu, cụm công nghiệp với diện tích 1.505 ha; đã quy hoạch mạng lưới trường lớp, mạng lưới y tế; điều chỉnh quy hoạch và phát triển chợ, siêu thị, trung tâm thương mại đến năm 2020. Tình trạng xây dựng không phép, trái phép được xử lý quyết liệt và ngăn chặn hiệu quả, đặc biệt là các xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B, Bình Hưng, Tân Kiên; đã phát hiện và xử lý 5.385 vụ san lấp, xây dựng, sửa chữa không phép, sai phép và lấn chiếm sông rạch. Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ môi trường được triển khai tích cực, đồng bộ mang lại hiệu quả bước đầu đáng kể, tiến hành kiểm tra, xử lý 300 trường hợp gây ô nhiễm môi trường, có trên 34.000 hộ dân đăng ký thu gom rác, đạt tỉ lệ 54% so tổng số hộ dân.

Kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội từng bước được triển khai thực hiện. Nhiều dự án lớn về giao thông, hệ thống điện, điện thoại, cấp thoát nước do Trung ương và thành phố đầu tư như: đại lộ Võ Văn Kiệt, đường ô tô cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, đường Nguyễn Hữu Trí, hệ thống cống thoát nước Quốc lộ 1A, Tỉnh lộ 10, đại lộ Nguyễn Văn Linh,… đã đưa vào sử dụng góp phần giải quyết ùn tắc giao thông và tạo mỹ quan đô thị. Xây dựng giao thông nông thôn theo phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm” được đông đảo người dân đồng tình hưởng ứng, 13/21 tuyến đường đã được đầu tư và đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu đi lại và thúc đẩy phát triển sản xuất. Hoàn thành 8/10 dự án phát triển mạng lưới điện, đưa vào sử dụng 12/24 công trình xây dựng giếng nước sạch và phát triển mạng lưới cấp nước tại các xã - thị trấn. Đến nay, tỷ lệ hộ dân sử dụng điện lưới quốc gia đạt 98%, số hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 95% (hoàn thành chỉ tiêu Đại hội đề ra). Hệ thống bưu chính viễn thông ngày càng mở rộng đáp ứng kịp thời yêu cầu thông tin liên lạc cho các doanh nghiệp và nhân dân, số lượng máy điện thoại thuê bao tăng gấp đôi so với năm 2005. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng được tiến hành khẩn trương, ưu tiên các dự án trọng điểm có nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. Công tác tái định cư đã được triển khai tích cực nhằm góp phần tháo gỡ vướng mắc và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án.

Hoạt động tài chính, ngân sách thực hiện tốt nhiệm vụ, cân đối phục vụ các hoạt động thường xuyên và đáp ứng nhu cầu cho đầu tư phát triển, đảm bảo quốc phòng an ninh, đồng thời thực hiện nghiêm túc chủ trương thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí. Thu ngân sách Nhà nước đạt 2.046 tỷ đồng, tăng bình quân 25,34%/năm, vượt 10,34% so chỉ tiêu nghị quyết.

Thu hút vốn đầu tư nhằm khai thác thế mạnh của huyện về đất đai và lao động được triển khai tích cực; đã thành lập Tổ xúc tiến đầu tư, Hội Doanh nghiệp huyện. Đến nay, các Khu công nghiệp Lê Minh Xuân, Khu công nghiệp Vĩnh Lộc lấp đầy diện tích và đang tiếp tục mở rộng. Các loại hình sản xuất kinh doanh qui mô vừa và nhỏ cũng phát triển nhanh; trong 05 năm qua, đã có thêm 6.917 hộ kinh doanh cá thể, các loại hình doanh nghiệp khác được thành lập và đi vào hoạt động.

2/ Về phát triển văn hóa - xã hội

Ngành giáo dục - đào tạo được tập trung đầu tư và mang lại hiệu quả tích cực. Chất lượng đội ngũ giáo viên nâng lên rõ rệt. Đến nay, có 100% cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở đạt chuẩn theo quy định; tỷ lệ giáo viên tiểu học và trung học cơ sở có bằng A tin học, ngoại ngữ đạt 92,8%; quy mô, hiệu suất đào tạo các bậc học mỗi năm đều tăng. Tỷ lệ học sinh bỏ học có giảm dần (tiểu học 0,12%, trung học cơ sở 1,65%). Công tác xóa mù chữ đạt tỷ lệ theo quy định, hoàn thành phổ cập bậc trung học phổ thông đúng nghị quyết đề ra. Công tác hướng nghiệp cho học sinh lớp 9 được quan tâm thực hiện. Đầu tư xây dựng, mở rộng mạng lưới trường lớp được chú trọng, đã xây dựng mới 8 trường (tiểu học 5, trung học cơ sở 2, trung học phổ thông 1), nâng cấp, mở rộng 7 trường với tổng kinh phí hơn 34 tỷ đồng, đạt 50% chỉ tiêu nghị quyết, xây dựng được 4 trường đạt chuẩn quốc gia. Xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập có bước phát triển, vận động xây dựng 02 trường mẫu giáo với kinh phí hơn 30 tỷ đồng; đến nay 100% xã - thị trấn đã thành lập Trung tâm học tập cộng đồng, hoạt động các Trung tâm từng bước được củng cố, nâng chất lượng. Đời sống văn hóa của nhân dân từng bước được nâng lên, có những tiến bộ mới. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được tiếp tục thực hiện thực chất hơn, số lượng và chất lượng các danh hiệu văn hóa ngày càng tăng; đến nay có 55,1% ấp - khu phố được công nhận, 85,4% hộ dân đạt “Gia đình văn hóa”. Công tác quản lý Nhà nước lĩnh vực văn hóa được củng cố và tăng cường với trên 200 lượt kiểm tra hàng năm, kịp thời chấn chỉnh các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần hạn chế tệ nạn xã hội, làm lành mạnh môi trường xã hội trên địa bàn huyện. Hoạt động thông tin, tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao với nhiều loại hình phong phú, đa dạng được tổ chức thường xuyên từ huyện đến cơ sở, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ phong trào thể dục thể thao, vui chơi giải trí được mở rộng; đặc biệt nhiều cơ sở do tư nhân đầu tư (sân bóng đá, bóng chuyền, cầu lông…), đáp ứng đáng kể nhu cầu tập luyện thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe trong nhân dân, phong trào rèn luyện thể dục thể thao được đông đảo cán bộ, công chức, học sinh và nhân dân hưởng ứng, số người tham gia luyện tập thường xuyên ngày càng tăng. Các thiết chế văn hóa từng bước được triển khai (nhà văn hóa xã Bình Chánh). Nhiều di tích lịch sử, văn hóa được trùng tu, xây dựng và được thành phố xếp hạng khu di tích lịch sử cấp thành phố như: Khu tưởng niệm 32 Dân công Hỏa tuyến Vĩnh Lộc - Mậu thân 1968 (xã Vĩnh Lộc A), di tích lịch sử Rạch Già (xã Hưng Long), đình Phú Lạc (xã Phong Phú). Thực hiện nếp sống văn minh đô thị đạt kết quả đáng kể, qua đó đã nâng cao ý thức chấp hành pháp luật giao thông, pháp luật bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh nơi ở, nơi công cộng cũng như trong giao tiếp ứng xử văn hóa, văn minh.

Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được quan tâm thực hiện tốt, chất lượng điều trị ngày nâng lên, từng bước triển khai điều trị chuyên sâu. Nhiều chương trình phòng chống dịch bệnh đã được triển khai rộng khắp trong cộng đồng, đã khống chế được nhiều dịch bệnh, đặc biệt là dịch cúm A/H1N1, sốt xuất huyết, tay chân miệng; công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm được tiến hành thườgn xuyên; mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc thiết yếu và nhân lực, có 9/16 trạm y tế đã được xây dựng đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất, 15/16 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia về chuyên môn, 100% trạm y tế có bác sĩ, nữ hộ sinh. Hệ thống cơ sở y dược tư nhân ngày càng phát triển, góp phần đáng kể trong chăm sóc chữa bệnh cho nhân dân. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình có chuyển biến tốt, đã kiểm soát được tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm dần qua các năm.

Các chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đầu tư cho 6 xã nghèo đạt, vượt so với chỉ tiêu nghị quyết. Thông qua các chương trình đã hỗ trợ giải quyết việc làm cho 22.129 lao động, đào tạo nghề 2.082 lao động, 51 trường hợp đi lao động hợp tác nước ngoài, giúp cho thanh niên nông thôn có nghề nghiệp ổn định hơn trong điều kiện sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp dần. Đã cấp 121.953 thẻ bảo hiểm y tế cho 24.000 lượt hộ nghèo, miễn giảm học phí cho hơn 6.947 lượt học sinh nghèo với tổng số tiền 2,5 tỷ đồng. Mục tiêu giảm hộ nghèo được toàn Đảng bộ nỗ lực triển khai thực hiện, đến cuối năm 2009 cơ bản huyện không còn hộ nghèo thu nhập dưới 6 triệu đồng/người/năm, vận động hỗ trợ 5.800 suất học bổng, trên 42.841 phần quà cho học sinh nghèo học giỏi, hộ nghèo, neo đơn. Ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho 6 xã nghèo, đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 46 công trình (cầu đường nông thôn, trường học, trạm y tế, chợ) với tổng kinh phí 79,6 tỷ đồng. Công tác chăm lo cho người diện chính sách thông qua xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương và các hoạt động đền ơn đáp nghĩa mang ý nghĩa thiết thực.

3/ Về quốc phòng - an ninh

Tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ ngày càng vững mạnh, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân luôn được quan tâm, đến nay biên chế cơ quan Quân sự huyện đạt 100%, đội ngũ cán bộ chủ chốt đáp ứng tiêu chuẩn chính trị, chuyên môn theo quy định; lực lượng dự bị động viên luôn được kiện toàn, tỷ lệ đảng viên đạt 8,26%, đoàn viên 54,75% (chỉ tiêu nghị quyết là từ 6 - 8% và 50%), thực hiện chỉ tiêu tập trung kiểm tra sẵn sàng chiến đấu và huấn luyện hàng năm đạt từ 92% trở lên; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt tỷ lệ 1,22% so với tổng dân số, trong đó đảng viên đạt 15,06% và đoàn viên đạt 59,84% (chỉ tiêu nghị quyết từ 10 - 13% và 50%). Hoàn thành tốt chỉ tiêu giao quân hằng năm, trong 05 năm qua đã đưa 795 nam công dân thi hành nghĩa vụ quân sự, trong đó có 46 đảng viên trẻ. Công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh bảo đảm về thời gian, nội dung và đối tượng theo qui định, đã có 1.074 cán bộ chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền, mặt trận đoàn thể, giáo viên, doanh nghiệp huyện và cơ sở, chức sắc, chức việc các tôn giáo và hơn 21.000 lượt học sinh các trường trung học phổ thông tham dự. Chất lượng công tác sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang địa phương được nâng lên, thường xuyên luyện tập, diễn tập các phương án chiến đấu trị an xã - thị trấn và diễn tập phòng thủ cấp huyện, góp phần nâng cao chất lượng vận hành cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp trong xử lý các tình huống.

Đảm bảo giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, nhất là trong thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước. Chủ động giải quyết có hiệu quả các vụ khiếu kiện đông người, các vụ đình công, lãng công, tranh chấp liên quan đến tôn giáo, không để xảy ra các điểm nóng về an ninh chính trị. Công tác phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, thực hiện chương trình mục tiêu “3 giảm” có chuyển biến, đã khám phá nhiều chuyên án về hình sự, ma túy, tỷ lệ điều tra khám phá án từng bước được nâng lên. Công tác tuyên truyền, giáo dục Luật Giao thông đường bộ, tuần tra, kiểm tra an toàn giao thông được duy trì thường xuyên, đã phát hiện xử lý trên 65.195 vụ vi phạm, tình hình đua xe trái phép cơ bản được ngăn chặn. Phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc” từng bước được củng cố, phát triển, đã kiện toàn 1.508 tổ nhân dân, tổ dân phố, 5.129 nhóm hộ tự quản, quần chúng đã cung cấp trên 6.355 nguồn tin có liên quan đến an ninh trật tự. Các mô hình “Khu phố, ấp phòng chống trộm”, “tổ dân phòng tự quản, tổ xe ôm tự quản” được triển khai thực hiện và phát huy hiệu quả, chất lượng hoạt động phong trào ở cơ sở có chuyển biến tích cực, 100% xã - thị trấn đạt loại khá (chỉ tiêu nghị quyết là 85%).

II/ VỀ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

1/ Về xây dựng Đảng

1.1/ Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng

Công tác triển khai, quán triệt Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết các Hội nghị Trung ương (khóa X), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố, huyện được tổ chức chặt chẽ, sâu rộng đến cơ sở và đảng viên; nội dung, hình thức có cải tiến hơn trước; chất lượng, hiệu quả học tập được nâng lên; qua học tập có gắn với xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện. Công tác tuyên truyền được tiến hành thường xuyên, chuyển tải thông tin kịp thời. Công tác nắm bắt dư luận xã hội qua các sự kiện chính trị - xã hội được chú trọng, phản ảnh kịp thời các tâm tư, nguyện vọng, bức xúc của người dân. Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền kỷ niệm truyền thống, báo cáo thời sự trong và ngoài nước được tổ chức kịp thời. Nhìn chung, công tác giáo dục lý luận chính trị đã góp phần định hướng tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức cảnh giác cho cán bộ, đảng viên, nhân dân trong tình hình mới, tạo sự đồng thuận trong hệ thống chính trị và nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.

1.2/ Thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ngày càng đi vào chiều sâu, chứng minh tính đúng đắn, sức sống mạnh mẽ và đi vào lòng người, đã góp phần nâng cao nhận thức và sự chuyển biến trong việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân; góp phần nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên; tăng cường sự đoàn kết thống nhất về nhận thức, ý chí trong Đảng. Việc tổ chức học tập các chuyên đề được thực hiện nghiêm túc với gần 55.000 lượt người tham dự. Hầu hết các chi, đảng bộ cơ sở đều xây dựng chương trình hành động thực hiện cuộc vận động gắn với chức năng, nhiệm vụ từng địa phương, đơn vị với những mô hình làm theo cụ thể, mang ý nghĩa thiết thực. Các hoạt động hội thi kể chuyện, viết bài cảm nhận về Bác, giao lưu các cá nhân điển hình trong việc học tập và làm theo gương đạo đức của Bác được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân tham gia, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong huyện. Qua sơ kết 3 năm, đã có 22 tập thể, 72 cá nhân điển hình đã được huyện tuyên dương, khen thưởng.

1.3/ Công tác tổ chức, cán bộ

Công tác củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy có sự tập trung cao. Đã thành lập mới 13 chi, đảng bộ cơ sở, đạt 130% chỉ tiêu Đại hội (10), 10 chi bộ ngoài quốc doanh đạt 71,43% chỉ tiêu (14), 101 chi bộ trực thuộc đạt 69,18% chỉ tiêu (146). Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng được nâng lên thông qua các biện pháp trực tiếp kiểm tra, theo dõi, hướng dẫn triển khai thực hiện Chỉ thị 10-CT/TW của Ban Bí thư và Hướng dẫn 05-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về “nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng ngày càng thực chất hơn, thang điểm thi đua hàng năm được điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế cho từng loại hình cơ sở Đảng; bình quân 5 năm qua có 55% cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh, 10% cơ sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu và 62% chi bộ trực thuộc đạt trong sạch vững mạnh, hoàn thành chỉ tiêu Đại hội đề ra.

Đội ngũ đảng viên tăng nhanh về số lượng, chất lượng được nâng lên. Trong nhiệm kỳ kết nạp 1.031 đảng viên mới, vượt 59% chỉ tiêu nghị quyết. Trong đó, có 585 đảng viên là đoàn viên thanh niên, chiếm tỷ lệ 56,71%, 240 đảng viên là giáo viên tăng gấp 20 lần so với nhiệm kỳ trước, 82 đảng viên trẻ trong lực lượng quân sự. Việc nâng cao chất lượng đảng viên theo Kế hoạch 23-KH/HU ngày 17 tháng 4 năm 2006 của Huyện ủy được thực hiện nghiêm túc. Kết quả, bình quân 05 năm qua có 99% đảng viên đủ tư cách, trong đó có 9% đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt chỉ tiêu nghị quyết.

Công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ, luân chuyển cán bộ được tiến hành chặt chẽ, đúng nguyên tắc, quy trình, góp phần tăng cường, bổ sung cán bộ trẻ về cơ sở. Huyện ủy đã quy hoạch được 254 cán bộ diện Huyện ủy quản lý, 21 cán bộ diện Thành ủy quản lý và 71 cán bộ diện quy hoạch dài hạn; đa số cán bộ được quy hoạch đều đáp ứng được các tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và có triển vọng. Kết quả đánh giá cán bộ diện Huyện ủy quản lý, bình quân có 21,5% cán bộ hoàn thành xuất sắc chức trách nhiệm vụ, 76,7% cán bộ hoàn thành chức trách nhiệm vụ và 1,8% cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ. Thực hiện Nghị quyết 11 của Trung ương về công tác luân chuyển cán bộ, Huyện ủy đã điều động, luân chuyển 138 cán bộ và đề bạt, bổ nhiệm 172 cán bộ, trong đó có 45 cán bộ trẻ được luân chuyển về cơ sở; cán bộ được luân chuyển đều an tâm công tác, phong cách, phương pháp làm việc chuyển biến theo hướng tích cực, góp phần thay đổi phương thức hoạt động của Đảng, chính quyền, mặt trận - đoàn thể ngày càng tốt hơn. Đến nay, Huyện ủy đã đưa đi đào tạo chuyên môn được: 30 thạc sĩ, 174 cử nhân và 172 trung cấp; đào tạo lý luận chính trị: 40 cao cấp, 294 trung cấp, 352 sơ cấp; hiện nay, cán bộ chủ chốt (Đảng, đoàn thể, trưởng, phó các cơ quan chuyên môn, đơn vị sự nghiệp, 06 chức danh chủ chốt xã - thị trấn) đều có trình độ đại học trở lên.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được tập trung quán triệt và thực hiện nghiêm túc theo Quy định số 57-QĐ/TW. Đã ban hành quy chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ giữa Ban Tổ chức với Ủy ban Kiểm tra, Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Đảng ủy Công an huyện và Đảng ủy Quân sự huyện; tổ chức thẩm tra, xác minh kết luận 1.547 hồ sơ phục vụ công tác kết nạp Đảng và công tác tổ chức cán bộ.

1.4/ Công tác kiểm tra, giám sát

Công tác kiểm tra, giám sát ngày càng đi vào nề nếp, có chương trình, kế hoạch cụ thể, có trọng tâm trọng điểm. Trong nhiệm kỳ, đã tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên, chuyên đề đối với 114 chi, đảng bộ cơ sở, 182 chi bộ trực thuộc, 80 đảng viên về công tác lãnh đạo triển khai, tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Trung ương, Thành ủy, Huyện ủy, trọng tâm là việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa liên thông”; công tác quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, tuyển dụng cán bộ, quy chế dân chủ cơ sở, dân chủ cơ quan; công tác quản lý đất đai, xây dựng, kết nạp đảng viên, thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hiện Điều lệ Đảng, thực hiện thu nộp quản lý, sử dụng đảng phí, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng… Qua đó, đã phát hiện, đấu tranh, ngăn ngừa các vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên trong triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà nước, góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến tổ chức Đảng và đảng viên được giải quyết kịp thời, đảm bảo đúng quy trình. Qua xem thẩm tra, xác minh và kết luận có 32 trường hợp liên quan đến 01 tổ chức Đảng và 37 đảng viên (có 09 cấp ủy viên), trong đó có 17 đảng viên (có 04 cấp ủy viên) vi phạm phải xử lý kỷ luật và kiểm điểm rút kinh nghiệm. Ngoài ra, giải quyết 02 trường hợp khiếu nại về kỷ luật Đảng gồm 01 trường hợp giữ nguyên hình thức kỷ luật và 01 trường hợp xóa kỷ luật.

Công tác thi hành kỷ luật đảng viên được cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra từ huyện đến cơ sở quan tâm xử lý đúng phương châm, nguyên tắc, thủ tục theo hướng dẫn quy định thi hành kỷ luật của Đảng, mức độ xử lý phù hợp với tính chất, nội dung vi phạm của đảng viên. Huyện ủy và cấp ủy cơ sở đã tiến hành xử lý kỷ luật 131 đảng viên (có 42 là cấp ủy viên) liên quan đến việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết, đoàn kết nội bộ, tham nhũng, lãng phí, quản lý, sử dụng đất đai, cố ý làm trái, phẩm chất đạo đức, lối sống. Tính nghiêm minh thi hành kỷ luật trong Đảng đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng trong việc chấp hành Điều lệ và kỷ luật Đảng.

2/ Về xây dựng củng cố chính quyền, công tác cải cách hành chính, cải cách tư pháp, phòng chống tham nhũng

Củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền gắn với thực hiện cải cách hành chính, năng lực và hiệu lực quản lý nhà nước trên địa bàn huyện từng bước được cải tiến, kỷ luật hành chính được tăng cường. Thực hiện tốt công tác thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện. Bộ máy chính quyền từ huyện đến xã - thị trấn luôn được củng cố kiện toàn; đã tiến hành sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện theo hướng tinh gọn, hợp lý, hiệu quả. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên. Đến nay, có 100% cán bộ, công chức cấp huyện, 78% cán bộ, công chức xã - thị trấn đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn theo quy định. Công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, lý luận chính trị cho cán bộ, công chức xã - thị trấn được thực hiện thường xuyên hàng năm.

Cải cách hành chính tập trung 4 nội dung: cải cách thể chế và thủ tục hành chính; cải cách tổ chức, bộ máy; xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công đã thu được những kết quả ban đầu và được sự đồng thuận của người dân. Công tác chỉ đạo điều hành được đổi mới, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để tăng cường quản lý trên nhiều lĩnh vực. Đã cải tiến và từng bước hoàn chỉnh các thủ tục, quy trình tiếp nhận và giải quyết các dịch vụ hành chính công; các quy trình, thủ tục hành chính trong quản lý quy hoạch, đầu tư; nhà đất, xây dựng, thu - chi ngân sách. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý Nhà nước đạt kết quả bước đầu, sử dụng phần mềm dùng chung, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 vào công tác quản lý hành chính đạt kết quả khá tốt, được thành phố đánh giá cao.

Công tác cải cách tư pháp đạt được kết quả tích cực, cơ bản giải quyết yêu cầu bức bách trước mắt về cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho các cơ quan tư pháp như: hỗ trợ xây dựng, cải tạo nâng cấp trụ sở, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc và các hoạt động chuyên môn với tổng kinh phí 16,379 tỷ đồng; số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp tăng lên rõ rệt, so với đầu nhiệm kỳ đã bổ sung thêm 14 đồng chí, tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học từ 41,95% lên 58,05%, trình độ trung cấp chính trị trở lên từ 42,62% lên 57,38%; chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử được củng cố nâng lên, bảo đảm đúng người, đúng tội không để xảy ra oan sai, tỷ lệ trả hồ sơ điều tra bổ sung mỗi năm đều giảm, án dân sự bị hủy và cải sửa do lỗi chủ quan tỷ lệ bình quân 1,16% so với trước, từng bước khắc phục tình trạng án tồn đọng kéo dài. Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật thực hiện thường xuyên, liên tục với nhiều hình thức đa dạng theo phương châm hướng về cơ sở, phù hợp với từng đối tượng cụ thể, góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật trong cán bộ, đảng viên, công chức và các tầng lớp nhân dân. Đến nay, có 16 xã - thị trấn và 87 ấp - khu phố đã được trang bị tủ sách pháp luật.

Công tác phòng, chống tham nhũng được tập trung triển khai đồng bộ các biện pháp cụ thể, trọng tâm là phòng ngừa, ngăn chặn. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí được thực hiện thường xuyên, liên tục đến tận cơ sở (có 3.759 lượt người tham dự). Tiến hành rà soát, điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện các quy trình và công khai minh bạch thủ tục hành chính nhất là trong các lĩnh vực đất đai xây dựng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước và quản lý đất công, đảm bảo tiết kiệm 10% chi thường xuyên (94 tỷ 994 triệu đồng). Tăng cường phân cấp quản lý, kiểm tra, giám sát xử lý kịp thời các sai phạm trong thực thi công vụ. Đã tổ chức 30 đoàn thanh tra về kinh tế xã hội, kiểm tra hoạt động của 31 đơn vị, qua đó đã phát hiện và chấn chỉnh một số vi phạm trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản, quản lý đất công, quản lý trật tự đô thị và thu chi tài chính, thu hồi cho ngân sách huyện 223 triệu đồng; hoàn thành việc kê khai tài sản theo Nghị định 37/2008/NĐ-CP ngày 09/3/2007 của Chính phủ về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập.

3/ Thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được mở rộng, phát triển; góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Huyện ủy đã tập trung chỉ đạo xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Về công tác dân tộc”, “Về công tác tôn giáo”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6,7 (khóa X) về công tác thanh niên, phụ nữ, xây dựng đội ngũ tri thức, công nhân và nông nghiệp - nông dân - nông thôn. Thực hiện các chủ trương, chính sách nhằm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, môi trường thuận lợi cho nông dân, công nhân lao động, các doanh nghiệp, đội ngũ trí thức cải thiện cuộc sống, lao động sản xuất; các chức sắc, tín đồ tôn giáo sống “tốt đời đẹp đạo”; qua đó đã đoàn kết, động viên, phát huy tiềm lực, trí tuệ của các tầng lớp nhân dân đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển chung của huyện. Nhìn chung, giai cấp công nhân không ngừng tăng lên số lượng và chất lượng, nhiều phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm nguyên vật liệu trong công nhân mang lại hiệu quả thiết thực, trên 50 công đoàn viên ưu tú đã được kết nạp Đảng; giai cấp nông dân tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, đồng tình giao đất để Nhà nước triển khai, thực hiện dự án, tích cực tham gia phong trào nhân dân hiến đất làm đường; chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi với nhiều mô hình phong phú mang lại hiệu quả kinh tế cao; đội ngũ trí thức đã phát huy chuyên môn, tay nghề; đóng góp có hiệu quả trong quá trình phát triển ở các lĩnh vực quản lý nhà nước, khoa học, kỹ thuật, y tế, giáo dục; phụ nữ tiếp tục thực hiện phong trào học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc, tham gia phản biện xã hội, giám sát thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; tầng lớp thanh niên phát động như: “Chương trình vì sự phát triển của thanh niên”, “Chương trình xung kích vì Tổ quốc, vì cộng đồng”, “Chủ nhật xanh”, “Mùa hè xanh”, “Kỳ nghỉ hồng” giúp cho thanh niên tích cực học tập và rèn luyện; Hội Cựu chiến binh và cán bộ Hưu trí dành nhiều thời gian cho giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng cho thanh niên và thế hệ trẻ. Hoạt động Hội Khuyến học mang lại hiệu quả thiết thực, hằng năm đã hỗ trợ học bổng cho học sinh, nhà tình thương cho giáo viên nghèo trị giá 1,6 tỷ đồng.

Mặt trận - đoàn thể và các hội quần chúng có nhiều chuyển biến trong đổi mới, nội dung phương thức hoạt động như: thực hiện có hiệu quả các chương trình liên tịch, tăng cường công tác đối thoại, lắng nghe phản ánh của dân, từng bước thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, tổ chức nhiều buổi tọa đàm, sinh hoạt chuyên đề, tích cực xây dựng, phát triển nhiều loại hình tập họp, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia; phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước như phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”, phong trào “hiến đất làm đường giao thông” (trên 4.200 hộ hiến 250.000 m2 đất làm đường giao thông nông thôn, trị giá gần 130 tỷ đồng), cuộc vận động vì người nghèo, xóa đói giảm nghèo…; tích cực bảo vệ, chăm lo đời sống, lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên, động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất kinh doanh làm giàu chính đáng. Qua đó, đã tập hợp được lực lượng quần chúng tham gia các tổ chức chính trị xã hội ngày càng đông đảo, chất lượng tổ chức sinh hoạt ngày càng tiến bộ hơn, kỹ năng vận động được nâng lên, mang lại hiệu quả thiết thực. Trình độ chuyên môn, chính trị của đội ngũ cán bộ mặt trận - đoàn thể so với đầu nhiệm kỳ được nâng cao; chất lượng hoạt động có chuyển biến; có 100% mặt trận - đoàn thể huyện vững mạnh, 84,82% mặt trận - đoàn thể xã - thị trấn vững mạnh đạt chỉ tiêu Đại hội.

B/ MẶT HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

I/ HẠN CHẾ

Tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, phát triển chưa cân đối giữa các vùng. Ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đa số có quy mô nhỏ, chậm đổi mới công nghệ, mức độ cạnh tranh thấp; hoạt động dịch vụ - thương mại còn mang tính tự phát; sản xuất nông nghiệp chưa vững chắc, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi chưa đi vào chiều sâu, kinh tế tập thể còn yếu kém. Thu hút đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của huyện; tiến độ mở rộng, xây dựng mới các dự án khu, cụm công nghiệp và các dự án phát triển đô thị còn chậm. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng được tốc độ phát triển. Một số công trình lớn chưa hoàn thành theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra như dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng đường Dương Đình Cúc, Nguyễn Cửu Phú, Trần Đại Nghĩa, Trung tâm hành chính huyện và một số công trình giáo dục, y tế. Công tác lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng, quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tập trung chậm. Ô nhiễm môi trường vẫn còn xảy ra, tình trạng xây dựng không phép, trái phép tuy có giảm nhưng chưa căn cơ.

Một số chỉ tiêu xây dựng như xã văn hóa, ấp - khu phố văn hóa, nhà văn hóa, sân vận động, trường học, bệnh viện chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội. Mạng lưới trường lớp ở khu vực đô thị hóa chưa đáp ứng kịp số lượng học sinh tăng nhanh. Đội ngũ giáo viên còn thiếu, nhất là bậc tiểu học. Hệ thống dạy nghề và chất lượng đào tạo còn hạn chế. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế chưa đáp ứng đủ nhu cầu; ngộ độc thực phẩm vẫn còn xảy ra. Hoạt động các loại hình trên lĩnh vực văn hóa, dịch vụ văn hóa còn diễn biến phức tạp. Thực hiện nếp sống văn minh đô thị chưa căn cơ, bền vững.

Chất lượng chính trị của lực lượng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên còn thấp, lực lượng tự vệ cơ quan, doanh nghiệp còn mỏng và yếu. Tình hình trật tự an toàn xã hội tuy được giữ vững nhưng còn diễn biến phức tạp, phạm pháp hình sự mặc dù đã được kéo giảm (bình quân 8,40%/năm) nhưng còn thấp so nghị quyết (10% đến 15%/năm); công tác điều tra khám phá án được nâng lên (56,3%) nhưng chưa đạt chỉ tiêu đề ra (60%); tệ nạn ma túy, nguy cơ cháy nổ, đơn thư khiếu nại, đình công, lãng công có chiều hướng gia tăng; chỉ tiêu xây dựng các xã cơ bản không còn người nghiện ma túy đều không đạt. Tình trạng lấn chiếm lòng lề đường, ùn tắc giao thông tại một số giao lộ chính chưa có chuyển biến; số vụ tai nạn giao thông, tỷ lệ người chết và bị thương vẫn còn cao. Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, điều kiện cơ sở vật chất các cơ quan tư pháp tuy có nâng lên nhưng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp đặt ra; mục tiêu hoàn thành xây dựng trụ sở mới cho các cơ quan tư pháp tại Trung tâm hành chính huyện chưa thực hiện được, kết quả thi hành án đạt thấp.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng chưa đi vào chiều sâu; chưa thâm nhập vào quần chúng, phương pháp truyền đạt còn thiếu sinh động. Hình thức tuyên truyền chưa phong phú. Tinh thần, thái độ học tập chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nghiêm túc. Nắm bắt, xử lý thông tin dư luận xã hội có lúc chưa kịp thời trước những diễn biến phức tạp trong tình hình mới. Công tác giáo dục lịch sử truyền thống chưa được xem trọng đúng mức.

Kết quả thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa đồng đều, rộng khắp, có nơi chưa đạt yêu cầu. Về nhận thức đã có sự chuyển biến nhất định nhưng việc làm theo chưa trở thành hành động cụ thể mang tính tự giác và chưa tạo sức lan tỏa trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Một số cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về mục đích, yêu cầu của cuộc vận động nên việc lãnh đạo, chỉ đạo chưa thường xuyên, liên tục và đúng tầm.

Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng tuy có nâng lên, nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng trong tình hình mới; chương trình công tác chưa bám sát nghị quyết của cấp trên, chưa gắn với giải quyết những vấn đề bức xúc của cơ quan và địa phương. Trong sinh hoạt Đảng còn tình trạng tình cảm, nể nang, phê bình chung chung, ngại đụng chạm. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là cán bộ trẻ, cán bộ kế thừa ở cơ sở chưa được quan tâm thực hiện. Xây dựng tổ chức Đảng ngoài quốc doanh chưa đạt chỉ tiêu.

Công tác kiểm tra, giám sát tuy có chuyển biến nhưng chưa đồng bộ nhất là ở cơ sở; có cấp ủy chưa quan tâm chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra giám sát hoặc có xây dựng nhưng tổ chức thực hiện chưa nghiêm túc; một số cấp ủy cơ sở chưa quan tâm giám sát chuyên đề. Nhiều trường hợp đảng viên có dấu hiệu vi phạm nhưng không được cấp ủy, tổ chức Đảng phát hiện, góp ý, đấu tranh kịp thời, nên đã vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Cán bộ chuyên trách kiểm tra cơ sở thường kiêm nhiệm, thay đổi vị trí công tác, ít có thời gian đầu tư cho công tác kiểm tra, giám sát, nghiệp vụ có phần hạn chế nên thiếu chủ động trong tham mưu thực hiện nhiệm vụ.

Quản lý nhà nước trên các lĩnh vực quy hoạch, hạ tầng kỹ thuật, đất đai, xây dựng, môi trường, trật tự an toàn xã hội tuy có tập trung nhưng vẫn còn bộc lộ những mặt yếu kém, bất cập, đặc biệt là ở các xã đô thị hóa. Cải cách hành chính ở một số lĩnh vực còn thiếu đề ra biện pháp cụ thể, tổ chức thực hiện chưa quyết liệt; một số thủ tục hành chính còn chồng chéo, vướng mắc nhưng chậm tập trung tháo gỡ. Một số cán bộ, công chức còn yếu về năng lực, phẩm chất, kinh nghiệm thực tiễn. Hiệu quả phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn trước tình hình giá cả các mặt hàng thiết yếu tăng cao ảnh hưởng đến đời sống, sự bất cập về chính sách đền bù đất nông nghiệp và tái định cư. Chất lượng hoạt động của một bộ phận mặt trận - đoàn thể trên địa bàn dân cư chưa thu hút, hấp dẫn được quần chúng tham gia. Một số cấp ủy, chi bộ chậm đổi mới phương thức lãnh đạo đối với mặt trận - đoàn thể; một số đảng viên, cán bộ công chức chưa làm tốt công tác vận động nhân dân, chưa thật sự gắn bó với dân, chưa thể hiện được tính tiên phong, gương mẫu để quần chúng học tập, noi theo.

II/ NGUYÊN NHÂN

1/ Nguyên nhân khách quan

Đồ án quy hoạch chung do chậm được phê duyệt. Địa bàn huyện rộng, giáp ranh nhiều quận - huyện đang trong quá trình đô thị hóa, dân số cơ học tăng nhanh dẫn đến sự quá tải để xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, xã hội và khó khăn trong quản lý nhà nước ở địa phương.

Một số chính sách của Nhà nước liên quan đến giá bồi thường đất nông nghiệp, thủ tục về đất đai, xây dựng, xử lý vi phạm hành chính còn nhiều bất cập; ý thức tự giác, chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân chưa cao.

Tình hình thời tiết không thuận lợi, dịch bệnh liên tục xảy ra, đặc biệt cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cuối năm 2008 đã gây tác động bất lợi đến sản xuất - kinh doanh, ảnh hưởng nhất định đến thu nhập và đời sống nhân dân trên địa bàn, nhất là dân nghèo.

2/ Nguyên nhân chủ quan

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy trong triển khai thực hiện nhiệm vụ, phát triển kinh tế xã hội có lúc, có nơi còn thiếu kiên quyết, chưa mạnh dạn đề ra chủ trương đột phá, để huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị cùng tham gia.

Điều hành của chính quyền trên một số lĩnh vực còn lúng túng, kỷ luật hành chính trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa chấp hành nghiêm. Mối quan hệ làm việc, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chưa được gắn bó chặt chẽ, thiếu sự đồng bộ và thống nhất cao, đặc biệt là đối với những vấn đề có tính chất phức tạp còn bị động, né tránh trách nhiệm.

Một bộ phận cán bộ các cơ quan chuyên môn chưa phát huy hết vai trò tham mưu trong việc nghiên cứu đề ra các giải pháp, biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề bức thiết trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội.

Công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia phong trào chưa mạnh, nhất là ở các địa bàn nông thôn, vùng sâu, nội dung sinh hoạt chưa phong phú, còn mang tính hình thức khó thu hút người dân tham gia.

C/ ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

I/ ĐÁNH GIÁ CHUNG

Nhìn chung 5 năm qua, Huyện ủy đã lãnh đạo chính quyền, mặt trận, đoàn thể, các tầng lớp nhân dân trong huyện hoàn thành cơ bản các nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX, tạo ra những thay đổi tích cực vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đô thị. Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội từng bước được nâng cấp, mở rộng, quản lý đô thị, nông thôn được tăng cường, chấn chỉnh quyết liệt, tạo sự chuyển biến tích cực. An sinh xã hội được tập trung chăm lo, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên. Đảm bảo giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tổ chức cơ sở Đảng tiếp tục được củng cố, kiện toàn; năng lực và hiệu lực quản lý nhà nước trên địa bàn huyện có bước nâng lên, kỷ luật hành chính được tăng cường; khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được mở rộng, phát triển.

Mặt khác, trong quá trình phát triển, huyện cũng còn một số mặt tồn tại. Tăng trưởng kinh tế chưa thật bền vững; thu hút đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của huyện; cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội chưa đáp ứng được tốc độ phát triển; quản lý đô thị, nông thôn còn bất cập; đời sống một bộ phận nhân dân còn gặp nhiều khó khăn; tình hình trật tự an toàn xã hội tuy được giữ vững nhưng còn diễn biến phức tạp; năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng tuy có nâng lên nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng trong tình hình mới; cải cách hành chính ở một số lĩnh vực chưa quyết liệt; chất lượng hoạt động của một bộ phận mặt trận - đoàn thể trên địa bàn dân cư chưa thu hút, hấp dẫn được được quần chúng tham gia.

II/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Từ thực tiễn lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trong nhiệm kỳ qua, Huyện ủy rút ra bốn bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, phát triển kinh tế phải gắn với các vấn đề an sinh xã hội, đặc biệt là bảo vệ môi trường. Qua thực hiện Nghị quyết chuyên đề về môi trường cho thấy việc tổ chức khắc phục tồn tại trên hết sức khó khăn, tốn kém nhiều thời gian, chi phí, công sức của nhiều ngành, nhiều cấp. Yêu cầu đặt ra là phải tập trung tuyên truyền vận động nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; thực hiện kiên quyết các định hướng, quy hoạch, xác định cơ cấu ngành sản xuất cho phù hợp trước mắt và lâu dài, xử lý kiên quyết các hành vi gây ô nhiễm môi trường.

Thứ hai, trong chỉ đạo, điều hành phải chủ động, sáng tạo, phát huy trí tuệ tập thể đi đôi với tăng cường trách nhiệm cá nhân, đảm bảo tính kế hoạch, phù hợp thực tiễn, có chọn lựa trọng tâm trọng điểm, mạnh dạn đưa ra các giải pháp mang tính đột phá và tập trung dồn sức thực hiện; tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc. Thời gian qua, một số lĩnh vực như: thu ngân sách, xây dựng cơ bản, cải cách hành chính, an sinh xã hội… đạt được kết quả tích cực do sự đổi mới phương thức, tính quyết liệt trong chỉ đạo điều hành, tổ chức tốt công tác triển khai thực hiện nhiệm vụ.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức tinh thông nghiệp vụ, trong sạch vững mạnh, nhằm đủ sức đảm đương nhiệm vụ trong giai đoạn mới; đồng thời phải mạnh dạn, kiên quyết thay đổi những cán bộ kém năng lực, thiếu trách nhiệm, không hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Thứ tư, thực hiện đầy đủ quy chế dân chủ cơ sở, tổ chức tuyên truyền vận động, giải thích, thuyết phục, đưa ra dân, bàn bạc công khai, minh bạch, tổ chức tốt việc tiếp xúc, đối thoại với dân để giải quyết kịp thời các thắc mắc, khiếu nại. Phát huy vai trò của lực lượng nòng cốt (cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, người có uy tín trong khu vực, địa bàn), kiên trì đeo bám, gương mẫu thực hiện sẽ tạo được sự đồng thuận của người dân, hạn chế khiếu nại phức tạp kéo dài. Phong trào nhân dân hiến đất làm đường giao thông, bàn giao mặt bằng ở một số dự án trọng điểm đạt kết quả tốt là do phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

PHẦN THỨ HAI

PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

HUYỆN BÌNH CHÁNH TRONG 05 NĂM (2011 - 2015)

A/ DỰ BÁO TÌNH HÌNH

Trong 05 năm tới, theo xu thế phát triển chung của thành phố, huyện Bình Chánh có những thuận lợi, khó khăn sau:

Được sự quan tâm lãnh đạo của Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các sở, ban, ngành và mặt trận - đoàn thể thành phố. Đảng bộ huyện thể hiện sự đoàn kết thống nhất, quyết tâm đổi mới phương thức lãnh đạo từ huyện đến cơ sở. Có ưu thế về vị trí cửa ngõ phía Tây Nam thành phố, đầu mối giao thông thuận lợi về đường bộ, đường thủy với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Quỹ đất còn khá lớn, nhiều khu công nghiệp, khu dân cư, công trình thương mại - dịch vụ trên địa bàn huyện đã hình thành và đang phát huy hiệu quả; kết hợp với việc Trung ương và Thành phố đầu tư các đường giao thông trọng điểm như: đại lộ Võ Văn Kiệt, đường ô tô cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, các tuyến Mettro của thành phố, Quốc lộ 50, Tỉnh lộ 10, đại lộ Nguyễn Văn Linh nối dài, đường vành đai,…là điều kiện thuận lợi làm tiền đề để huyện phát triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, huyện Bình Chánh vẫn phải đối mặt với một số khó khăn; trước bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp và khó lường. Các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế chưa được khai thác triệt để; sức cạnh tranh của các doanh nghiệp còn ở mức thấp; đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, thiếu lao động tay nghề cao; kết cấu hạ tầng kinh tế chưa đảm bảo yêu cầu phát triển. Công tác cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt mục tiêu đề ra. Một số lĩnh vực như tăng dân số cơ học, ô nhiễm môi trường, xây dựng không phép, trái phép, hoạt động tội phạm còn diễn biến phức tạp cần phải nỗ lực nhiều hơn để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

B/ MỤC TIÊU TỔNG QUÁT

Mục tiêu tổng quát trong 05 năm (2011 - 2015): tập trung xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; khai thác có hiệu quả các nguồn lực; đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ; nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Ưu tiên phát triển hạ tầng kỹ thuật, xã hội theo quy hoạch, đặc biệt là hệ thống giao thông, cấp thoát nước; mạng lưới giáo dục, y tế; gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt an sinh xã hội, giảm nghèo, tăng hộ khá; giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tạo nền tảng để huyện Bình Chánh phát triển bền vững, văn minh, hiện đại.

C/ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

1/ Về kinh tế

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 27%/năm. Trong đó:

+ Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành công nghiệp bình quân đạt 30%/năm.

+ Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành thương mại - dịch vụ bình quân đạt 22%/năm.

+ Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp bình quân đạt 5%/năm.

- Tỷ trọng các ngành kinh tế: công nghiệp chiếm tỷ lệ 81%, thương mại - dịch vụ chiếm tỷ lệ 16% và nông nghiệp chiếm tỷ lệ 3%.

- Tốc độ thu ngân sách nhà nước tăng bình quân 25%/năm.

- Tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước trong 05 năm là 2.500 tỷ đồng.

- Phấn đấu 100% hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh.

- Tỷ lệ thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải sinh hoạt tại các khu dân cư tập trung đạt 100%.

- Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường được phát hiện và xử lý theo quy định đạt 100%.

2/ Về văn hóa - xã hội

- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân dưới 1,17%/năm.

- Đến cuối năm 2015, phấn đấu đạt tỷ lệ 10 bác sĩ/10.000 dân.

- Xây dựng 70% ấp, khu phố văn hóa; 85% hộ gia đình văn hóa.

3/ Về quốc phòng - an ninh

- Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt tỷ lệ từ 1% trở lên so với tổng dân số, trong đó đảng viên đạt tỷ lệ từ 18% trở lên, đoàn viên đạt từ 75% trở lên; kiện toàn 100% đầu mối biên chế các đơn vị dự bị động viên, trong đó đảng viên đạt 8% trở lên, đoàn viên đạt từ 55% trở lên. Tỷ lệ đảng viên trẻ nhập ngũ đạt 2%. Tổ chức diễn tập chiến đấu trị an hàng năm cấp xã - thị trấn đạt 25 - 30% đầu mối đơn vị tham gia.

- Kéo giảm phạm pháp hình sự từ 5 - 10% so nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ khám phá án chung từ 65 - 70%, án nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đạt 90% trở lên.

- Phấn đấu xây dựng 16/16 xã - thị trấn không còn tụ điểm, địa bàn phức tạp về ma túy và giải quyết cơ bản người nghiện ma túy, mại dâm.

4/ Về xây dựng hệ thống chính trị:

- Thành lập 10 chi bộ trong các doanh nghiệp tư nhân.

- Có ít nhất 75% chi, đảng bộ cơ sở đạt trong sạch vững mạnh, trong đó có 15% đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu.

- Kết nạp 1.250 đảng viên.

- Hàng năm, có 100% tổ chức mặt trận - đoàn thể huyện đạt vững mạnh.

5/ Một số chương trình, công trình kinh tế - xã hội trọng điểm:

5.1/ Chương trình trọng điểm:

- Chương trình xây dựng xã Nông thôn mới (phấn đấu xây dựng 05 xã Nông thôn mới).

- Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường.

- Chương trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

- Chương trình tăng cường quản lý Nhà nước về đất đai, xây dựng và môi trường.

5.2/ Công trình trọng điểm:

- Xây dựng Trung tâm hành chính huyện.

- Xây dựng Khu tưởng niệm Liệt sĩ Mậu Thân 1968.

- Bồi thường giải phóng mặt bằng xây dựng đường nối đại lộ Võ Văn Kiệt và đường ô tô cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương.

- Xây dựng hệ thống thủy lợi Khu B - xã Bình Lợi.

- Xây dựng cầu kênh Xáng Ngang - Bình Lợi.

- Xây dựng Bệnh viện Bình Chánh.

- Xây dựng Trung tâm Y tế dự phòng huyện.

- Xây dựng Khu tái định cư 12ha - xã Đa Phước.

D/ NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP

Trên cơ sở dự báo tình hình phát triển, xác định mục tiêu trong 05 năm tới, Đảng bộ đề ra các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực chủ yếu như sau:

I/ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, XÂY DỰNG QUỐC PHÒNG - AN NINH

1/ Phát triển kinh tế

Nhiệm vụ

Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao, hiệu quả, bền vững. Tiếp tục thực hiện cơ cấu kinh tế “công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ thương mại - nông nghiệp”; trong đó chú trọng nâng dần tỷ trọng dịch vụ thương mại trong cơ cấu kinh tế.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung tháo gỡ các khó khăn để thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh phát triển; khai thác, phát huy lợi thế đất đai, hạ tầng kỹ thuật mới xây dựng; hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ; phát triển mạnh các ngành dịch vụ giá trị cao, các ngành vận tải, thương mại, du lịch.

Thu hút các thành phần kinh tế; tập trung thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Quản lý quy hoạch xây dựng nhà ở đô thị và nông thôn theo hướng dân cư tập trung; thực hiện chỉnh trang đô thị dọc Quốc lộ 1A, Khu dân cư Trung tâm thị trấn Tân Túc, các điểm dân cư trên các tuyến đường giao thông lớn, dân cư đông; phát triển các khu dân cư mới.

Đầu tư xây dựng, đảm bảo kết nối mạng lưới giao thông trên địa bàn huyện; quan tâm xây dựng hệ thống giao thông Khu trung tâm hành chính huyện, hệ thống giao thông tại các xã nghèo tạo điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Quy hoạch mở rộng hệ thống điện, nước phục vụ các khu công nghiệp, khu dân cư mới hình thành và theo các trục giao thông mới xây dựng; nâng cấp, phát triển hệ thống điện chiếu sáng chính quy và dân lập.

Xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường; bảo đảm 100% các khu công nghiệp có hệ thống xử lý chất thải tập trung đạt tiêu chuẩn; nâng dần tỷ lệ thu gom, vận chuyển và xử lý rác dân lập.

Tăng nhanh nguồn lực tài chính; duy trì khả năng cân đối thu - chi ngân sách, đảm bảo cân đối phục vụ các hoạt động thường xuyên và đáp ứng nhu cầu cho đầu tư phát triển, đảm bảo quốc phòng an ninh, đồng thời thực hiện nghiêm túc chủ trương thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí.

Giải pháp

Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

Tăng cường công tác kiểm tra phát hiện và kiên quyết xử lý cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường, ưu tiên triển khai các dự án đầu tư về cải thiện môi trường; kiểm soát ô nhiễm trong sản xuất, kinh doanh và sử dụng các sản phẩm gây ô nhiễm; hoàn thành căn bản việc di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp, chăn nuôi gây ô nhiễm; thường xuyên giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm.

Hoàn thành đưa vào khai thác: cụm công nghiệp An Hạ (123,5 ha), cụm công nghiệp (96 ha), xã Lê Minh Xuân. Tiếp tục đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ sớm đưa vào hoạt động Khu công nghiệp Vĩnh Lộc II (98,7 ha); Khu công nghiệp Vĩnh Lộc III (200 ha); mở rộng Khu công nghiệp Lê Minh Xuân (1.017 ha); Cụm công nghiệp đường Trần Đại Nghĩa (50 ha); cụm công nghiệp Tân Túc (40 ha); cụm công nghiệp Qui Đức (70 ha); cụm công nghiệp Đa Phước (70 ha) kết hợp kêu gọi đầu tư các khu, cụm công nghiệp được duyệt theo quy hoạch, đồng thời đẩy nhanh đầu tư cơ sở hạ tầng kết nối với các khu công nghiệp.

Ổn định và phát huy các ngành chủ lực: nhựa, cao su, thực phẩm, kêu gọi đầu tư các ngành công nghiệp cơ khí chế tạo máy, điện tử, tin học và sản xuất vật liệu.

Về dịch vụ thương mại

Sắp xếp, ổn định hành lang dịch vụ thương mại dọc các tuyến Quốc lộ 1A, Quốc lộ 50, Trần Đại Nghĩa và Nguyễn Hữu Trí.

Quy hoạch phát triển thương mại - dịch vụ cao cấp dọc đại lộ Võ Văn Kiệt giai đoạn 1, giai đoạn 2; đoạn nối đại lộ Nguyễn Văn Linh với đường ô tô cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương.

Kêu gọi, thu hút đầu tư các loại hình trung tâm thương mại, siêu thị, chợ nông thôn, chợ tại các xã đô thị hóa; sớm triển khai dự án xây dựng cơ sở hạ tầng Khu sinh thái Văn hóa hồ Vĩnh Lộc; mở rộng Công viên Văn hóa Láng Le; dự án du lịch sinh thái tuyến Tân Kiên - Tân Túc - Tân Nhựt - Bình Lợi - Lê Minh Xuân.

Phát triển ngành bưu chính viễn thông theo hướng tăng nhanh sự đa dạng hóa các loại hình dịch vụ.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thị trường.

Về nông nghiệp

Tập trung thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp - nông dân - nông thôn; phát triển nông nghiệp theo hướng nông nghiệp đô thị “xanh - sạch - bền vững”, bảo vệ môi trường. Đến năm 2015, hoàn thành xây dựng 05 xã Nông thôn mới, trong đó xã Tân Nhựt hoàn thành vào năm 2012.

Tiến hành quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp; hoàn thành chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở 2 xã Tân Kiên, Tân Nhựt; ưu tiên phát triển chăn nuôi tập trung, quy mô lớn gắn với chế biến sản phẩm và xử lý chất thải. Ứng dụng công nghệ sinh học và cơ giới hóa trong nông nghiệp.

Xây dựng các phương án chủ động, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, dự báo thông tin thị trường, biến động giá cả; kiểm tra, đầu tư nâng cấp các công trình đê bao thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Hỗ trợ tìm đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp; phát triển các hình thức hợp tác dịch vụ nông nghiệp; đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác giữa nông dân và doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm ổn định.

Về đầu tư phát triển

Huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển, trong đó khai thác nguồn thu ngân sách, rà soát quỹ nhà đất do Nhà nước trực tiếp quản lý để đấu giá tạo nguồn vốn, thực hiện chủ trương đổi đất lấy hạ tầng kỹ thuật, đầu tư theo phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.

Ưu tiên đầu tư lĩnh vực giáo dục, y tế, giao thông, thủy lợi và hạ tầng kỹ thuật, xã hội cho các xã nghèo.

Quản lý chặt chẽ vốn đầu tư từ ngân sách; tăng cường công tác giám sát, thanh tra, theo dõi và đánh giá chất lượng các công trình; kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, đảm bảo tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư, thi công và giải ngân các dự án.

Quản lý đô thị và nông thôn

Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch mạng lưới hạ tầng kỹ thuật (giao thông, điện, nước) và các qui chế quản lý phù hợp kèm theo.

Khẩn trương công bố quy hoạch đã được phê duyệt; đẩy nhanh lập quy hoạch chi tiết xây dựng 1/2000; tăng cường các biện pháp xử lý kiên quyết, đồng bộ và triệt để các vi phạm về xây dựng, đất đai, đảm bảo triển khai các dự án trọng điểm của thành phố.

Huy động mọi nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng, trong đó tiếp tục phát huy nguồn thu tiền sử dụng đất, đồng thời đẩy mạnh phương thức vận động nhân dân cùng tham gia thực hiện.

Phối hợp ngành điện, nước, bưu chính viễn thông để phát triển đồng bộ mạng lưới phù hợp quy hoạch.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 13-NQ/HU của Huyện ủy về tăng cường lãnh đạo về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa và phát triển đô thị gắn với Quyết định số 200/2004/QĐ-UBND ngày 18 tháng 8 năm 2004 của Ủy ban nhân dân thành phố về qui định 17 ngành nghề sản xuất kinh doanh không được sản xuất trong các khu dân cư tập trung.

Về thu - chi ngân sách

Tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại để tạo nguồn thu ổn định, lâu dài. Tăng cường quản lý thu, thực hiện thu đúng, thu đủ.

Chi ngân sách theo dự toán, theo quy định và định mức chi tiêu trên tinh thần tiết kiệm, chống lãng phí.

2/ Về văn hóa - xã hội

2.1/ Giáo dục và đào tạo

Nhiệm vụ

Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo toàn diện, đảm bảo mục tiêu đào tạo con người, nâng cao dân trí về mọi mặt, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề, kỹ năng chuyên môn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội huyện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững. Phấn đấu duy trì và nâng chuẩn xóa mù chữ - phổ cập giáo dục các bậc học, rút ngắn khoảng cách về chất lượng giáo dục so với các quận nội thành.

Giải pháp

Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu; nâng cao trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý ngành giáo dục; có chính sách thực hiện đề án thu hút giáo viên về công tác tại huyện.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành giáo dục, đầu tư các trang thiết bị phục vụ học tập, giảng dạy, đủ về số lượng và ngày càng hiện đại. Đẩy mạnh việc đầu tư xây dựng các trường đạt chuẩn Quốc gia để tạo môi trường học tập lành mạnh, điều kiện học tập tốt nhất cho các em học sinh. Tăng cường giáo dục đạo đức trong học sinh, không để xảy ra bạo lực học đường.

Tiếp tục triển khai chương trình xã hội hóa giáo dục; tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của mỗi công dân và của các tổ chức chính trị, xã hội; kêu gọi, khuyến khích thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển mạng lưới trường lớp, đặc biệt là trường dạy nghề; nâng cao vai trò quản lý Nhà nước, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người.

Đa dạng hóa các hình thức học tập, tạo điều kiện cho mọi người tiếp cận giáo dục một cách dễ dàng, khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan; miễn, giảm học phí và có biện pháp giúp đỡ học sinh nghèo.

2.2/ Về công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân

Nhiệm vụ

Thực hiện tốt chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, phấn đấu đạt chỉ tiêu giảm sinh và giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân hàng năm.

Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển dịch vụ, trong đó chú trọng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình.

Giải pháp

Tăng cường phối hợp giữa các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội, đẩy mạnh truyên truyền vận động và giáo dục về dân số, kế hoạch hóa gia đình, nhất là vị thành niên, thanh niên và dân cư nông thôn.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác khám chữa bệnh nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội phát triển ngành y tế. Triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu y tế quốc gia và các chương trình sức khỏe của thành phố. Kịp thời khống chế dịch bệnh, phát triển mạng lưới giám sát dịch bệnh. Thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh và chính sách bảo hiểm y tế cho nhân dân.

Chú trọng việc phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ y tế cơ sở. Nâng cao y đức gắn với đấu tranh đẩy lùi các tiêu cực trong khám, chữa bệnh. Quản lý chặt chẽ các hoạt động khám, chữa bệnh tư nhân; bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; tăng cường các biện pháp phòng nghiện ma túy, lây nhiễm HIV/AIDS.

Tiếp tục kế hoạch xây dựng mới Bệnh viện Bình Chánh, Trung tâm Y tế dự phòng huyện và 06 Trạm y tế Hưng Long, An Phú Tây, Bình Lợi, Qui Đức, Vĩnh Lộc B và Phong Phú.

2.3/ An sinh xã hội, giảm nghèo

Nhiệm vụ

Phấn đấu giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao chất lượng dạy nghề phù hợp nhu cầu của thị trường lao động. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, mở rộng quy mô đào tạo. Hoàn thành chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá theo chuẩn mới (thu nhập từ 12 triệu đồng/người/năm).

Giải pháp

Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu lao động, thu hút đầu tư để tạo việc làm. Thực hiện hiệu quả các chính sách, chương trình mục tiêu về hỗ trợ, giải quyết việc làm. Phối hợp các ngành thành phố, các doanh nghiệp triển khai nhanh các dự án xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp, nhà lưu trú cho công nhân.

Nâng cao năng lực quản lý nguồn lao động tại các xã - thị trấn. Chú trọng dạy nghề cho bộ đội xuất ngũ, người nghèo, người sau cai nghiện; đặc biệt dạy nghề cho nông dân, lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, vùng chuyển đổi cơ cấu kinh tế để góp phần chuyển dịch lao động.

Thường xuyên theo dõi và đánh giá kết quả thực hiện chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá để đảm bảo hỗ trợ đúng mục tiêu và có hiệu quả.

2.4/ Văn hóa thông tin - thể dục thể thao

Nhiệm vụ

Tập trung, xây dựng môi trường văn hóa xã hội lành mạnh, nếp sống văn minh - mỹ quan đô thị, tôn trọng pháp luật, kỷ cương. Tiếp tục nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, đấu tranh, bài trừ các hủ tục, mê tín, dị đoan; đẩy mạnh vận động tạo bước chuyển căn bản trong việc cưới, việc tang, lễ hội theo hướng văn minh, tiết kiệm, chống phô trương hình thức, lãng phí.

Xây dựng ý thức giữ gìn môi trường và văn minh nơi công cộng; nâng cao chất lượng hoạt động phong trào thể dục thể thao quần chúng và chuyên nghiệp.

Giải pháp

Hoàn thiện quy hoạch, huy động các nguồn đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa và các công trình di tích lịch sử, tập trung đầu tư cho những công trình văn hóa, di tích lịch sử mang tính biểu trưng và có vai trò quan trọng trong giáo dục lịch sử, truyền thống.

Phát triển, duy tu, bảo dưỡng hệ thống phát thanh; cải tiến nội dung và tăng số lượng phát hành tuần tin Bình Chánh đến từng ấp - khu phố và từng bước trong nhân dân.

Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động thể thao, mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào thể dục - thể thao trong nhân dân. Vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia luyện tập thể dục - thể thao thường xuyên.

3/ Về quốc phòng - an ninh

Nhiệm vụ

Tiếp tục tập trung thực hiện xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, chú trọng quy hoạch đất quốc phòng; tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh cho 100% cán bộ các cấp theo quy định; thường xuyên kiện toàn, nâng cao chất lượng chính trị lực lượng dân quân tự vệ.

Hoàn thành chỉ tiêu giao quân hàng năm, trong đó nâng tỷ lệ đảng viên chính thức thi hành nghĩa vụ quân sự. Tổ chức huấn luyện, diễn tập chiến đấu trị an và diễn tập phòng thủ sát với tình hình và yêu cầu vận hành cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp trong xử lý các tình huống.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới, chủ động nắm và kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh, đảm bảo giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Giải pháp

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh đến các tầng lớp nhân dân. Nâng cao trách nhiệm quản lý Nhà nước trong việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh.

Thường xuyên kiện toàn, nâng cao chất lượng các chi bộ quân sự, tổ Đảng trong lực lượng vũ trang. Chú trọng củng cố hoạt động Đoàn trong lực lượng dự bị động viên.

Tăng cường công tác phối hợp giữa lực lượng công an - quân sự và các ban ngành, đoàn thể, nhất là chính quyền xã - thị trấn trong công tác giữ gìn an ninh trật tự. Củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc” các cấp.

Tập trung lãnh đạo đấu tranh ngăn chặn tội phạm, kéo giảm tội phạm hình sự, tăng cường công tác điều tra khám phá án; trong đó, chú trọng điều tra xử lý kịp thời các vụ án phức tạp có tính thời sự góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị địa phương.

Đẩy mạnh công tác xét xử, giải quyết các vụ án, đặc biệt là án dân sự, đảm bảo đưa ra xét xử đúng người, đúng tội, đúng luật định.

II/ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG BỘ, TĂNG CƯỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ CỦA CHÍNH QUYỀN, PHÁT HUY DÂN CHỦ VÀ SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

1/ Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh

Nhiệm vụ

Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; xây dựng hệ thống chính trị và tổ chức Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; đổi mới phương thức lãnh đạo của Huyện ủy, cấp ủy cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị đặt ra; nâng cao tính tiên phong, gương mẫu, ý thức tự rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhất là các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, lãng phí góp phần phòng ngừa sai phạm của tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên.

Giải pháp

Tổ chức triển khai quán triệt kịp thời, nghiêm túc chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Cải tiến nội dung, hình thức học tập, phổ biến tuyên truyền, giáo dục chính trị, thông tin thời sự phù hợp với từng loại đối tượng nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong quá trình thực hiện các chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Chỉ thị 34-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Tăng cường nghiên cứu nắm bắt, giải quyết kịp thời dư luận xã hội nhất là những vấn đề nhạy cảm, phức tạp.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Chỉ thị 10-CT/TW ngày 30/3/2007 của Ban Bí thư về “nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ” đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả thiết thực. Tăng cường trách nhiệm của Đảng bộ khối doanh nghiệp tư nhân, Đảng ủy xã - thị trấn trong thực hiện Chỉ thị 11-CT/TU của Thành ủy về xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể và phát triển đảng viên, đoàn viên trong các doanh nghiệp tư nhân. Hàng năm, rà soát, điều chỉnh biểu điểm đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở Đảng cho phù hợp loại hình để đảm bảo đúng thực chất. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở. Thực hiện có hiệu quả Kết luận Hội nghị Trung ương 9 (khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020, trong đó tập trung đổi mới hơn nữa công tác đánh giá, phân loại cán bộ; quy hoạch và luân chuyển cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài.

Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát từ huyện đến cơ sở. Tăng cường kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ chức Đảng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, qui định của Đảng gắn với Qui định “về những điều đảng viên không được làm”; xử lý kịp thời, chính xác các vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên. Củng cố nhân sự Ủy ban Kiểm tra từ huyện đến cơ sở đủ số lượng, đảm bảo chất lượng; quan tâm bồi dưỡng nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát cho cấp ủy, Ủy ban Kiểm tra từ huyện đến cơ sở.

- Đổi mới phương pháp, lề lối làm việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ theo hướng phát huy dân chủ, thực hiện nghiêm túc kỷ cương, nguyên tắc của Đảng; nâng cao chất lượng hội nghị, giảm hội họp, tăng cường đi cơ sở. Phân công trách nhiệm các đồng chí Huyện ủy viên, lãnh đạo các Ban, Văn phòng Huyện ủy dành thời gian đi cơ sở để làm tốt công tác xây dựng Đảng.

2/ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền

Nhiệm vụ

Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân xã, thị trấn và Ủy ban nhân dân huyện và xã - thị trấn; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy chính quyền trong nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh cải cách hành chính công theo các chương trình, đề án của Trung ương và thành phố; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa chuyên”, tạo chuyển biến mạnh về thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong các cơ quan Nhà nước... Tập trung công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên chức nhất là kỹ năng quản lý điều hành, thực hiện công vụ và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, phẩm chất chính trị. Tiếp tục triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính.

Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, tập trung đầu tư cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử; các cơ quan tiến hành tố tụng tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm về việc thực hiện tổ chức xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp; đưa ra xét xử lưu động một số vụ án điểm.

Giải pháp

Công khai, minh bạch quy trình tuyển dụng công chức, viên chức hành chính. Thực hiện công tác luân chuyển cán bộ, tăng cường, bổ sung cán bộ trẻ có trình độ, năng lực để tạo động lực mới. Tăng cường kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức. Kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy hành chính những cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, tiêu cực, tham nhũng.

Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy từ huyện đến xã - thị trấn; tiếp tục thực hiện cơ chế khoán kinh phí và quản lý hành chính có hiệu quả tạo nguồn thu nhập cho cán bộ, công chức.

Thực hiện mạnh mẽ cải cách hành chính theo hướng công khai, minh bạch. Thực hiện triệt để “4 công khai”: công khai trình tự, thủ tục; công khai hồ sơ biểu mẫu; công khai thời gian và công khai lệ phí. Công khai thủ tục hành chính và chế tài nghiêm đối với các đơn vị tự đặt ra thủ tục trái quy định gây phiền hà cho nhân dân.

Cải tiến lề lối, tác phong làm việc theo hướng hiệu quả và thiết thực. Giảm thời gian hội họp, tăng cường đi cơ sở, giảm các hoạt động mang tính hình thức, không đem lại hiệu quả.

Bổ sung đủ biên chế cho các cơ quan tư pháp nhất là lực lượng điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, chấp hành viên. Xây dựng kế hoạch đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp huyện và cán bộ tư pháp - hộ tịch xã, thị trấn. Khuyến khích cán bộ các cơ quan tư pháp tự học nâng cao trình độ phục vụ công tác. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra việc rà soát giải quyết cơ bản án dân sự, thi hành án dân sự tồn đọng quá hạn, đơn khiếu kiện về tư pháp; chú trọng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân; đặc biệt là khiếu nại của nhân dân liên quan đến các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn huyện.

Tổ chức thực hiện tốt Luật phòng, chống tham nhũng, Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020. Đảm bảo công khai, minh bạch khi thực thi các chính sách và pháp luật Nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát; phối hợp tốt giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, giám sát khi giải quyết các trường hợp có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, nhất là trong các lĩnh vực trọng yếu như: quản lý đất đai; chi tiêu ngân sách; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý vốn, tài sản Nhà nước.

Tăng cường thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và hiệu lực của công tác giám sát cộng đồng, thường xuyên đối thoại giữa chính quyền địa phương với cộng đồng doanh nghiệp và dân cư. Đẩy mạnh công tác tiếp công dân; giải quyết kịp thời khiếu tố, khiếu nại của công dân theo quy định của pháp luật.

3/ Phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Nhiệm vụ

Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) “Về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Về công tác dân tộc”, “Về công tác tôn giáo”. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, các tầng lớp thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh…; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức tập hợp quần chúng và nâng cao hiệu quả hoạt động của mặt trận - đoàn thể và các hội quần chúng trong thực hiện công tác vận động nhân dân tham gia thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.

Giải pháp

Tổ chức triển khai, quán triệt nội dung Kết luận số 57-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo.

Tiếp tục triển khai thực hiện các chương trình hành động về thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, 7 (khóa X) về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân, thanh niên, phụ nữ, trí thức, nông nghiệp - nông dân - nông thôn. Đẩy mạnh công tác dân vận của Đảng, tăng cường nắm tình hình các giai cấp, các tầng lớp xã hội, phối hợp kịp thời giải quyết các bức xúc của dân nhất là trong lĩnh vực quy hoạch, đền bù giải tỏa, nhà, đất, tranh chấp lao động, không để xảy ra các “điểm nóng” về an ninh trật tự.

Đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị và các quy định pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; thường xuyên tổ chức sơ, tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm, đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện ở từng địa phương, gắn với công tác giám sát, phản biện xã hội của mặt trận - đoàn thể và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng.

Mặt trận - đoàn thể, các hội quần chúng tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động theo hướng sát hợp với nhu cầu và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; tập trung tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến mọi người dân và vận động nhân dân tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh gắn với việc đa dạng các hình thức tập hợp quần chúng nhất là việc xây dựng, mở rộng các tổ chức và hoạt động tự quản của nhân dân, nâng cao tính tự giác của đoàn viên, hội viên, xây dựng tổ chức đoàn - hội vững mạnh.

Phong trào hành động cách mạng gắn với chủ đề năm về thực hiện nếp sống văn minh - mỹ quan đô thị; chương trình mục tiêu “3 giảm”, chương trình vì người nghèo; phong trào “nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi”; “phụ nữ tích cực học tập sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; “thanh niên xung kích vì cộng đồng”; phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”; phong trào “nhân dân hiến đất làm đường giao thông”, góp phần nâng cao chất lượng Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” ngày càng phong phú, đa dạng, thiết thực và hiệu quả.

Tiếp tục triển khai các biện pháp chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng mặt trận - đoàn thể và các hội quần chúng vững mạnh (giáo dục chính trị, tư tưởng; tổ chức, nhân sự và các hoạt động phong trào) nhằm phát huy tốt vai trò mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.

Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt các chính sách xã hội, chương trình giảm nghèo tăng hộ khá, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cả hệ thống chính trị về thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước.

Phát huy tính chủ động, sáng tạo, giữ vững đoàn kết, Đảng bộ huyện Bình Chánh quyết tâm xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, động viên các tầng lớp nhân dân vượt qua những khó khăn, thử thách, đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi Nghị quyết, mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ X đề ra, xứng đáng với truyền thống cách mạng vẻ vang của huyện Bình Chánh anh hùng.

Thông báo