Thứ trưởng Bộ KH-ĐT Trần Quốc Phương phát biểu tại hội thảo (Thanhuytphcm.vn) - Ngày 20/5, Trường Đại học Kinh tế - Luật (UEL) cùng Viện nghiên cứu phát triển Công nghệ ngân hàng Đại học Quốc Gia TPHCM (VNUHCM-IBT) đã tổ chức hội thảo “Lựa chọn chính sách phục hồi kinh tế Việt Nam giai đoạn Covid-19”. Tham dự có Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú; Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) Trần Quốc Phương; các nhà khoa học, chuyên gia, các cơ quan hoạch định chính sách và quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp cùng thảo luận, phân tích nhằm đề xuất các lựa chọn chính sách thích hợp cho phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam.
Phát biểu tại hội thảo, PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Luật cho biết, thời gian qua, bên cạnh việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, Chính phủ đã phát đi thông điệp rất rõ ràng trong việc áp dụng đồng bộ các chính sách, biện pháp nhằm thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế, xã hội. Nhiều giải pháp được đề xuất để ứng phó với tác động của dịch bệnh đối với phát triển kinh tế, xã hội như: tổ chức lại sản xuất; cơ cấu lại và mở rộng, đa dạng hoá thị trường; tăng cường xuất khẩu, khai thác tốt thị trường nội địa; nâng cao tiêu dùng trong nước và tìm giải pháp khắc phục khó khăn về nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, kiểm soát tốt thị trường, giá cả. Nhìn chung, các chính sách đều đi đúng hướng, đạt sự đồng thuận cao. Tuy nhiên, phần lớn chỉ mới đang dừng lại ở mức độ cứu trợ khẩn cấp mang tính tức thời, ngắn hạn trong khi tác động Covid-19 sẽ còn kéo dài.
Hiện Chính phủ Việt Nam thực hiện nhiều chính sách tài khóa như đưa ra gói giảm thuế và tiền thuê đất với 180.000 tỷ đồng (tương đương 3% GDP, 11,7% thu ngân sách, 10,3% chi ngân sách và 88% mức thâm hụt ngân sách); chi 62.000 tỷ đồng tiền mặt cho an sinh xã hội (giảm giá điện trị giá 11.000 tỷ đồng và hoãn đóng bảo hiểm xã hội trị giá 9.500 tỷ đồng)... Tính tổng thể quy mô gói kích thích tài khóa của Việt Nam hiện tương đương 4,3% GDP - xấp xỉ với các nền kinh tế mới nổi khác cũng như so với các quốc gia đang phát triển trong khu vực.
Theo Nghiên cứu của VNUHCM-IBT, gói kích thích hiện nay của Việt Nam có tác động giới hạn đối với doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính vì các chính sách chỉ làm giảm hoặc ngăn dòng tiền ra của doanh nghiệp, chưa có chính sách hỗ trợ làm tăng dòng tiền vào. Sẽ có những doanh nghiệp đã phải ngưng hoạt động và có thể phải giải thể hoặc phá sản trước khi cải thiện được dòng tiền, vì vậy chính sách tạo dòng tiền vào cho doanh nghiệp là quan trọng hơn và sẽ mang lại hiệu quả hơn. Nói cách khác, phải bơm tiền thực cho doanh nghiệp mới tạo nhiên liệu kích hoạt cỗ máy kinh doanh tái khởi động.
Các chuyên gia của VNUHCM-IBT cho rằng, việc lựa chọn chính sách phục hồi kinh tế cần đặt trong tầm nhìn trung hạn với các giải pháp phi truyền thống, thậm chí khác biệt với các chính sách đã từng được áp dụng trong quá khứ vì bản chất tác động khủng hoảng do Covid-19 khác với các khủng hoảng trong quá khứ. Theo đó, cần cân nhắc điều chỉnh tăng chỉ tiêu lạm phát 4% của năm 2020 để giúp Ngân hàng Nhà nước có dư địa đủ lớn cho việc nới lỏng tiền tệ và cắt giảm lãi suất, không chỉ dừng lại ở lãi suất liên ngân hàng mà phải đảm bảo tác động làm hạ thấp mạnh hơn nữa lãi suất cho vay kể cả lãi suất của các món nợ cũ. Đặt giả thuyết, nếu tình hình Covid-19 kéo dài, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, hoạt động các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề hơn thì trong các quý tới cho vay cá nhân có thể giảm 20-25% và cho vay doanh nghiệp có thể giảm đến 30-40%. Vì vậy, trong thời gian tới, các ngân hàng thương mại (NHTM) nên ưu tiên chú trọng tái cấu trúc và gia hạn nợ mạnh hơn.
Các chuyên gia trao đổi, thảo luận về các chính sách phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19 Ngoài ra, triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp và tốc độ giải ngân thời gian qua cho thấy mục tiêu tăng trưởng tín dụng 9%-14% đã đặt ra cho năm 2020 có thể khó đạt được. Nhiều chuyên gia cho rằng thay vì chỉ đeo đuổi mục tiêu chung của tăng trưởng tín dụng, cần đặt ra mục tiêu hỗ trợ cho các ngành ưu tiên như công nghiệp chế biến - chế tạo xuất khẩu, thương mại, thuỷ sản, nông nghiệp... Việc xác định ngành ưu tiên hỗ trợ nên dựa trên ít nhất hai yếu tố là tốc độ phục hồi và mức độ ổn định của đầu ra của sản phẩm. Những doanh nghiệp hồi phục nhanh sẽ giúp nâng đỡ nền kinh tế và từ đó tác động lan tỏa để các doanh nghiệp khác phục hồi. Như vậy, chính sách cần có sự tập trung theo nhóm ngành chứ không nên dàn trải, thiếu tập trung.
Chia sẻ quan điểm tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH-ĐT Trần Quốc Phương cho rằng, trong bối cảnh toàn cầu và các quốc gia đều phải áp dụng các biện pháp, chính sách khắt khe về phong tỏa, cách ly, hạn chế đi lại, cấm giao thương để đối phó với dịch bệnh Covid-19, quốc gia nào kiểm soát dịch nhanh nhất, tốt nhất thì sẽ có cơ hội phục hồi kinh tế và phát triển tốt hơn. Bản thân các doanh nghiệp nếu ít bị tác động, thiệt hại; nhanh chóng có quyết sách trong định hướng phát triển thì sẽ nhanh chóng phục hồi so với các doanh nghiệp còn lại. Đồng thời cũng nhấn mạnh rằng, sẽ không chỉ có một chính sách duy nhất mà phải có sự kết hợp của nhiều chính sách và giải pháp để phục hồi và phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh hiện nay.
Thứ trưởng Bộ KH-ĐT Trần Quốc Phương cũng đánh giá cao các góp ý, kiến nghị tại hội thảo. Thông qua đó Bộ KH-ĐT sẽ tiếp tục lắng nghe, tìm hiểu các đề xuất mới, hiệu quả, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn để giúp Bộ có những phân tích mang tính chất khả thi hơn và cụ thể hơn, phục vụ cho công tác tham mưu chính sách đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cấp thẩm quyền cao hơn trong việc phục hồi và phát triển kinh tế trong giai đoạn tới.